ảnh LSVN tập 06
Chia sẻ bởi Mai Văn Quyết |
Ngày 27/04/2019 |
61
Chia sẻ tài liệu: ảnh LSVN tập 06 thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
PHẦN
LỊCH SỬ
VIỆT NAM
KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ
1954-1975
nghĩa trang trường sơn
Ngày 30/4/1971, người Mỹ biểu tình với lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Nhưng phải 4 năm sau, cuộc chiến này mới chấm dứt.
Đấu tranh chống Việt Nam hóa chiến tranh
Richard M. Nixon (Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ ) nhiệm kì phục vụ từ 1969 đến 1974.
Buổi sáng 16.03.1968, một buổi sáng định mệnh của tôi, của gia đình tôi, của xóm Thuận Yên và của Mỹ Lai.
Những người dân Huế phải rời bỏ nhà cửa tránh những cuộc giao tranh
Chiến tranh phá hoại lần 2 (6.4.1972-15.1.1973) của đế quốc Mỹ
Để thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ đã dốc vào canh bạc chiến tranh ở Việt Nam một lực lượng rất lớn trong bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ: 68% bộ binh, 60% lính thủy đánh bộ, 32% không quân chiến thuật, 50% không quân chiến lược, 40% hải quân, chi phí 352 tỷ USD, ném gần 10 triệu tấn bom đạn xuống cả 2 miền Nam –Bắc Việt Nam. Mỹ đã đưa vào miền Nam những đơn vị tinh nhuệ nhất. Đến cuối 1968, quân Mỹ ở miền Nam đã lên đến 545.000 tên cùng sự yểm trợ của 20 vạn quân Mỹ ở Thái Lan, Philippin, Nhật, Guam, Hạm đội 7… Mỹ cũng huy động 72.600 tên lính các nước chư hầu trực tiếp vào miền Nam tham chiến.
2. Đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965 – 1968)
Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ ( 1969 – 1972)
Ngày 20/1/1969, Nichxon nhậm chức tổng thống Mỹ và đưa ra “học thuyết Nichxơn”. Học thuyết này áp dụng vào Việt Nam gọi là chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” nhằm tránh thương vong cho lính Mỹ, tăng cường và hiện đại hóa quân ngụy để rút dần quân Mỹ về nước. Đây là thủ đoạn “dùng người Việt đánh người Việt” bằng bom đạn và đôla của Mỹ để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Ngày 6/4/1972, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc lần thứ hai, đánh phá ác liệt Hà Nội và các thành phố lớn, dùng hạm đội 7 đánh phá ven biển, thả thủy lôi phong tỏa cảng và miền Bắc với quy mô và mức độ hủy diệt chưa từng thấy.
Quân và dân miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu ngoan cường, sáng tạo, giáng cho không quân và hải quân Mỹ những đòn đích đáng.
Từ 6/4/1972 đến 17/1/1973 đã bắn rơi 754 máy bay ( có 61 B52, 10 F111), bắt sống hàng trăm giặc lái sừng sỏ, bắn cháy 9 tàu chiến. Đặc biệt trận “Điện Biên Phủ trên không” trong 12 ngày đêm năm 1972 đã chôn vùi “uy thế không lực Hoa Kỳ” tới tận bùn đen. Để chi viện cho chiến trường miền Nam. Bộ Chính trị quyết định tăng cường lực lượng lớn và củng cố các tuyến vận tải chiến lược. Đến 1971 đã triển khai gần 1.000km đường ống dẫn dầu vào miền Nam và tăng 10 lần số xăng dầu cho chiến trường. Chúng ta đã đưa vào miền Nam gần 20 vạn tấn vũ khí trang bị, gần 10 vạn cán bộ, chiến sĩ, điều 6 trung đoàn với đầy đủ vũ khí cho quân khu 5 và Tây Nguyên, điều 10 tiểu đoàn, 100 đại đội và trung đội đặc công cho miền Nam.
Đánh bại 2 cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc:
Bị thua đau trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đạ vạch kế hoạch tiến công miền Bắc để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Đêm 4 rạng 5/8/1964 chúng dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” vu cáo ta tiến công tàu Mỹ trên vùng biển quốc tế. Trưa 5/8/1964 đế quốc Mỹ mở cuộc tiến công “mũi tên xuyên” sử dụng 64 lần/chiếc máy bay hiện đại từ 2 tàu sân bay ném bom một số địa điểm trên miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc lần thứ nhất. Ngay trận đầu, quân và dân ta đã bắn rơi 8 chiếc, bắt sống giặc lái, làm nức lòng nhân dân cả nước, chứng minh lực lượng vũ trang ta có đủ khả năng đánh thắng không quân và hải quân Mỹ.
Trong cả 2 cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc (lần thứ nhất từ 5/8/1964 đến 1/11/1968; lần thứ hai từ 6/4/1972 đến 15/1/1973) chúng đã sử dụng tất cả các loại máy bay hiện đại gồm B52,F111( cánh cụp cánh xòe), máy bay trinh sát và gây nhiễu điện tử, báy bay tiếp dầu trên không, máy bay không người lái…Thủ đoạn đánh phá ác liệt và tàn bạo nhất: tập kích nhiều đợt với số lượng lớn máy bay, đánh ngày, đánh đêm, bay thành nhiều tầng, nhiều hướng, đánh phá các trận địa, sân bay, cơ sở kinh tế, cầu cống, đường giao thông, công trình văn hóa lịch sử, các khu dân cư, các thành phố lớn…hòng “đưa miền Bắc trở về với thời kỳ đồ đá”. Chúng đã ném hơn 2 triệu tấn bom đạn, thả hơn 2 vạn quả thủy lôi phong tỏa cảng biển, làm 80 ngàn người chết, hơn 120 ngàn người bị thương, tàn phá nặng nề các cơ sở kinh tế và hạ tầng cơ sở ở miền Bắc, gây nên tội ác “đất không dung trời không tha”.
Trận “Điện Biên Phủ trên không” đòn quyết định đập tan “Uy thế không lực Hoa Kỳ”:
Để ép ta ngồi vào bàn đàm phán Pari có lợi cho Mỹ, tối 18/12/1972 Tổng thống Nichxơn đã ra lệnh thực hiện chiến dịch “Lainơbếchcơ II” tấn công miền Bắc mà trọng điểm là Hà Nội, Hải Phòng. Mỹ đã huy động một lực lượng không quân lớn chưa từng có gồm 193 máy bay chiến lược B52 (50% số B52 của nước Mỹ); hơn 1.000 máy bay chiến thuật các loại và 5 liên đội tàu sân bay yểm trợ, trong đó có máy bay cánh cụp cánh xoè F111, máy bay tiếp dầu trên không KC-135, máy bay trinh sát điện tử… Mỗi phi vụ, máy bay B52 đều có hàng đàn máy bay yểm trợ tầm thấp, tầm cao để đánh chặn máy bay ta, ném bom các trận địa pháo, tên lửa, sân bay; đồng thời cho máy bay gây nhiễu điện tử, thả những “đám mây sợi kim loại” để làm “mù” hệ thống ra đa của ta. Mỹ chủ quan cho rằng chỉ cần 3 ngày đêm sẽ hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng, buộc ta phải cấp nhận điều kiện do Mỹ đặt ra ở hội nghị Pari.
Ngay đêm đầu tiên 18/12/1972 địch đã huy động 90 lần/ chiếc B52, 163 lần chiếc máy bay chiến thuật tập kích 3 đợt vào Hà Nội. Trong giai đoạn 1 từ 18 đến 24/12/1972 địch tập kích 13 trận B52, mỗi trận trung bình từ 27 đến 30 chiếc, 41 trận tập kích bằng không quân chiến thuật. Ta bắn rơi 52 máy bay, trong đó có 18 chiếc B52 (có 10 chiếc rơi tại chỗ), 5 chiếc F111 (có 2 chiếc rơi tại chỗ), bắt sống nhiều giặc lái. Bị đòn choáng váng, nhân dịp lễ Noen, Mỹ tuyên bố ngừng đánh phá nhưng vẫn huyênh hoang “Chờ tín hiệu khiếp nhược của Hà Nội”. Thực chất là để lấy lại tinh thần cho giặc lái và nghiên cứu thủ đoạn đánh tiếp. Sau 36 giờ ngừng chiến, từ 13 giờ ngày 26/12/1972 địch tiếp tục đánh phá đợt hai, lần này ngoài căn cứ Guam, chúng sử dụng cả máy bay từ Utapao ( Thái Lan) với số lượng 120 máy bay B52 và hơn 100 máy bay yểm trợ bay làm nhiều tầng, nhiều hướng đánh phá ác liệt, ném bom rải thảm cả vào khu phố Khâm Thiên và nhiều điểm dân cư. Trong bom đạn ác liệt, quân và dân ta vẫn bình tĩnh ngẩng cao đầu quyết bắt giặc Mỹ đền tội : 16 B52 tan xác ( có 6 chiếc rơi tại chỗ). Tổng cộng trong 12 ngày đêm đã có 81 chiếc máy bay bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B52 (16 chiếc rơi tại chỗ), 5 chiếc F111 (2 chiếc rơi tại chỗ), nhiều giặc lái bị bắt sống.
Chiến thắng 12 ngày đêm năm 1972 trên bầu trời Hà Nội là một “Điện Biên Phủ trên không” làm kẻ thù khiếp đảm và bạn bè khâm phục. Quân và dân ta bằng sức mạnh và trí tuệ Việt Nam đã đập tan “uy thế không lực Hoa Kỳ”, bẻ gãy ý chí xâm lược và buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari về Việt Nam và cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam. Chiến công vang dội “Điện Biên Phủ trên không” đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chuyển qua giai đoạn mới, hoàn thành giai đoạn “đánh cho Mỹ cút” tiến tới “đánh cho ngụy nhào” như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Trận đánh 81 ngày đêm tại thành cổ Quảng TrịMột phần của Chiến tranh Việt Nam.Thời gian28 tháng 6 - 16 tháng 9 năm 1972Địa điểmThành cổ Quảng TrịKết quảVNCH và Hoa Kỳ chiếm lại thành cổ, QĐNDVN rút lui chiến lượcTham chiến Quân đội Nhân dân Việt Nam
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam Quân lực Việt Nam Cộng Hoà
Quân đội Hoa KỳChỉ huyVăn Tiến Dũng
Trần Quý HaiNgô Quang TrưởngTổn thất10.000+ chết[1][1], bị thương chưa có số liệu.Thủy quân lục chiến: 3.658 chết[2] trên tổng số hơn 5.000 chết và bị thương[2][3]
Tổng số: 7.756 chết, hàng nghìn bị thương[3]
B52 đã ném 860.000 tấn bom vào miền bắc trong 3 năm chiến tranh phá hoại
Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, từ tháng 3-1965 đến tháng 11-1968, Không quân Mỹ (KQM) chủ yếu dùng máy bay F-105D Thần sấm. Được gọi là “lính xung kích của Mr Namara” nhưng loại này có đầy nhược điểm: tốc độ bay chậm, chỉ cường kích được ở trạng thái bổ nhào, tính cơ động tránh hoả lực phòng không kém, khả năng tự vệ kém nên phải có tiêm kích F-4 Con ma bay hộ tống.
Bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm
Khám tuyển quân sự (Hải Phòng, 1967
Chia tay những người lính trẻ lên đường ra mặt trận (Thanh Liên, Nam Hà, 1968)
Tám sinh viên của nhóm 109 mừng rỡ khi nhận được giấy trúng tuyển quân sự (Hà Nội, 7-1971)
vượt trường sơn
Xây cầu (1966
PHÁ NÚI MỞ ĐƯỜNG
`Huyền thoại Trường Sơn`
LỊCH SỬ
VIỆT NAM
KHÁNG CHIẾN
CHỐNG MỸ
1954-1975
nghĩa trang trường sơn
Ngày 30/4/1971, người Mỹ biểu tình với lá cờ của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam. Nhưng phải 4 năm sau, cuộc chiến này mới chấm dứt.
Đấu tranh chống Việt Nam hóa chiến tranh
Richard M. Nixon (Tổng thống thứ 37 của Hoa Kỳ ) nhiệm kì phục vụ từ 1969 đến 1974.
Buổi sáng 16.03.1968, một buổi sáng định mệnh của tôi, của gia đình tôi, của xóm Thuận Yên và của Mỹ Lai.
Những người dân Huế phải rời bỏ nhà cửa tránh những cuộc giao tranh
Chiến tranh phá hoại lần 2 (6.4.1972-15.1.1973) của đế quốc Mỹ
Để thực hiện chiến lược “Chiến tranh cục bộ”, Mỹ đã dốc vào canh bạc chiến tranh ở Việt Nam một lực lượng rất lớn trong bộ máy chiến tranh khổng lồ của Mỹ: 68% bộ binh, 60% lính thủy đánh bộ, 32% không quân chiến thuật, 50% không quân chiến lược, 40% hải quân, chi phí 352 tỷ USD, ném gần 10 triệu tấn bom đạn xuống cả 2 miền Nam –Bắc Việt Nam. Mỹ đã đưa vào miền Nam những đơn vị tinh nhuệ nhất. Đến cuối 1968, quân Mỹ ở miền Nam đã lên đến 545.000 tên cùng sự yểm trợ của 20 vạn quân Mỹ ở Thái Lan, Philippin, Nhật, Guam, Hạm đội 7… Mỹ cũng huy động 72.600 tên lính các nước chư hầu trực tiếp vào miền Nam tham chiến.
2. Đánh bại chiến lược “Chiến tranh cục bộ” của đế quốc Mỹ (1965 – 1968)
Đánh bại chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ ( 1969 – 1972)
Ngày 20/1/1969, Nichxon nhậm chức tổng thống Mỹ và đưa ra “học thuyết Nichxơn”. Học thuyết này áp dụng vào Việt Nam gọi là chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” nhằm tránh thương vong cho lính Mỹ, tăng cường và hiện đại hóa quân ngụy để rút dần quân Mỹ về nước. Đây là thủ đoạn “dùng người Việt đánh người Việt” bằng bom đạn và đôla của Mỹ để tiếp tục cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam.
Ngày 6/4/1972, Mỹ tiến hành chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc lần thứ hai, đánh phá ác liệt Hà Nội và các thành phố lớn, dùng hạm đội 7 đánh phá ven biển, thả thủy lôi phong tỏa cảng và miền Bắc với quy mô và mức độ hủy diệt chưa từng thấy.
Quân và dân miền Bắc vừa sản xuất vừa chiến đấu ngoan cường, sáng tạo, giáng cho không quân và hải quân Mỹ những đòn đích đáng.
Từ 6/4/1972 đến 17/1/1973 đã bắn rơi 754 máy bay ( có 61 B52, 10 F111), bắt sống hàng trăm giặc lái sừng sỏ, bắn cháy 9 tàu chiến. Đặc biệt trận “Điện Biên Phủ trên không” trong 12 ngày đêm năm 1972 đã chôn vùi “uy thế không lực Hoa Kỳ” tới tận bùn đen. Để chi viện cho chiến trường miền Nam. Bộ Chính trị quyết định tăng cường lực lượng lớn và củng cố các tuyến vận tải chiến lược. Đến 1971 đã triển khai gần 1.000km đường ống dẫn dầu vào miền Nam và tăng 10 lần số xăng dầu cho chiến trường. Chúng ta đã đưa vào miền Nam gần 20 vạn tấn vũ khí trang bị, gần 10 vạn cán bộ, chiến sĩ, điều 6 trung đoàn với đầy đủ vũ khí cho quân khu 5 và Tây Nguyên, điều 10 tiểu đoàn, 100 đại đội và trung đội đặc công cho miền Nam.
Đánh bại 2 cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc:
Bị thua đau trên chiến trường miền Nam, đế quốc Mỹ đạ vạch kế hoạch tiến công miền Bắc để ngăn chặn sự chi viện của miền Bắc cho miền Nam. Đêm 4 rạng 5/8/1964 chúng dựng lên “sự kiện vịnh Bắc Bộ” vu cáo ta tiến công tàu Mỹ trên vùng biển quốc tế. Trưa 5/8/1964 đế quốc Mỹ mở cuộc tiến công “mũi tên xuyên” sử dụng 64 lần/chiếc máy bay hiện đại từ 2 tàu sân bay ném bom một số địa điểm trên miền Bắc, mở đầu cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân ra miền Bắc lần thứ nhất. Ngay trận đầu, quân và dân ta đã bắn rơi 8 chiếc, bắt sống giặc lái, làm nức lòng nhân dân cả nước, chứng minh lực lượng vũ trang ta có đủ khả năng đánh thắng không quân và hải quân Mỹ.
Trong cả 2 cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ ra miền Bắc (lần thứ nhất từ 5/8/1964 đến 1/11/1968; lần thứ hai từ 6/4/1972 đến 15/1/1973) chúng đã sử dụng tất cả các loại máy bay hiện đại gồm B52,F111( cánh cụp cánh xòe), máy bay trinh sát và gây nhiễu điện tử, báy bay tiếp dầu trên không, máy bay không người lái…Thủ đoạn đánh phá ác liệt và tàn bạo nhất: tập kích nhiều đợt với số lượng lớn máy bay, đánh ngày, đánh đêm, bay thành nhiều tầng, nhiều hướng, đánh phá các trận địa, sân bay, cơ sở kinh tế, cầu cống, đường giao thông, công trình văn hóa lịch sử, các khu dân cư, các thành phố lớn…hòng “đưa miền Bắc trở về với thời kỳ đồ đá”. Chúng đã ném hơn 2 triệu tấn bom đạn, thả hơn 2 vạn quả thủy lôi phong tỏa cảng biển, làm 80 ngàn người chết, hơn 120 ngàn người bị thương, tàn phá nặng nề các cơ sở kinh tế và hạ tầng cơ sở ở miền Bắc, gây nên tội ác “đất không dung trời không tha”.
Trận “Điện Biên Phủ trên không” đòn quyết định đập tan “Uy thế không lực Hoa Kỳ”:
Để ép ta ngồi vào bàn đàm phán Pari có lợi cho Mỹ, tối 18/12/1972 Tổng thống Nichxơn đã ra lệnh thực hiện chiến dịch “Lainơbếchcơ II” tấn công miền Bắc mà trọng điểm là Hà Nội, Hải Phòng. Mỹ đã huy động một lực lượng không quân lớn chưa từng có gồm 193 máy bay chiến lược B52 (50% số B52 của nước Mỹ); hơn 1.000 máy bay chiến thuật các loại và 5 liên đội tàu sân bay yểm trợ, trong đó có máy bay cánh cụp cánh xoè F111, máy bay tiếp dầu trên không KC-135, máy bay trinh sát điện tử… Mỗi phi vụ, máy bay B52 đều có hàng đàn máy bay yểm trợ tầm thấp, tầm cao để đánh chặn máy bay ta, ném bom các trận địa pháo, tên lửa, sân bay; đồng thời cho máy bay gây nhiễu điện tử, thả những “đám mây sợi kim loại” để làm “mù” hệ thống ra đa của ta. Mỹ chủ quan cho rằng chỉ cần 3 ngày đêm sẽ hủy diệt Hà Nội, Hải Phòng, buộc ta phải cấp nhận điều kiện do Mỹ đặt ra ở hội nghị Pari.
Ngay đêm đầu tiên 18/12/1972 địch đã huy động 90 lần/ chiếc B52, 163 lần chiếc máy bay chiến thuật tập kích 3 đợt vào Hà Nội. Trong giai đoạn 1 từ 18 đến 24/12/1972 địch tập kích 13 trận B52, mỗi trận trung bình từ 27 đến 30 chiếc, 41 trận tập kích bằng không quân chiến thuật. Ta bắn rơi 52 máy bay, trong đó có 18 chiếc B52 (có 10 chiếc rơi tại chỗ), 5 chiếc F111 (có 2 chiếc rơi tại chỗ), bắt sống nhiều giặc lái. Bị đòn choáng váng, nhân dịp lễ Noen, Mỹ tuyên bố ngừng đánh phá nhưng vẫn huyênh hoang “Chờ tín hiệu khiếp nhược của Hà Nội”. Thực chất là để lấy lại tinh thần cho giặc lái và nghiên cứu thủ đoạn đánh tiếp. Sau 36 giờ ngừng chiến, từ 13 giờ ngày 26/12/1972 địch tiếp tục đánh phá đợt hai, lần này ngoài căn cứ Guam, chúng sử dụng cả máy bay từ Utapao ( Thái Lan) với số lượng 120 máy bay B52 và hơn 100 máy bay yểm trợ bay làm nhiều tầng, nhiều hướng đánh phá ác liệt, ném bom rải thảm cả vào khu phố Khâm Thiên và nhiều điểm dân cư. Trong bom đạn ác liệt, quân và dân ta vẫn bình tĩnh ngẩng cao đầu quyết bắt giặc Mỹ đền tội : 16 B52 tan xác ( có 6 chiếc rơi tại chỗ). Tổng cộng trong 12 ngày đêm đã có 81 chiếc máy bay bị bắn rơi, trong đó có 34 chiếc B52 (16 chiếc rơi tại chỗ), 5 chiếc F111 (2 chiếc rơi tại chỗ), nhiều giặc lái bị bắt sống.
Chiến thắng 12 ngày đêm năm 1972 trên bầu trời Hà Nội là một “Điện Biên Phủ trên không” làm kẻ thù khiếp đảm và bạn bè khâm phục. Quân và dân ta bằng sức mạnh và trí tuệ Việt Nam đã đập tan “uy thế không lực Hoa Kỳ”, bẻ gãy ý chí xâm lược và buộc Mỹ phải ký hiệp định Pari về Việt Nam và cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam, chấm dứt dính líu quân sự hoặc can thiệp vào nội bộ miền Nam Việt Nam. Chiến công vang dội “Điện Biên Phủ trên không” đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước chuyển qua giai đoạn mới, hoàn thành giai đoạn “đánh cho Mỹ cút” tiến tới “đánh cho ngụy nhào” như lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu.
Trận đánh 81 ngày đêm tại thành cổ Quảng TrịMột phần của Chiến tranh Việt Nam.Thời gian28 tháng 6 - 16 tháng 9 năm 1972Địa điểmThành cổ Quảng TrịKết quảVNCH và Hoa Kỳ chiếm lại thành cổ, QĐNDVN rút lui chiến lượcTham chiến Quân đội Nhân dân Việt Nam
Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam Quân lực Việt Nam Cộng Hoà
Quân đội Hoa KỳChỉ huyVăn Tiến Dũng
Trần Quý HaiNgô Quang TrưởngTổn thất10.000+ chết[1][1], bị thương chưa có số liệu.Thủy quân lục chiến: 3.658 chết[2] trên tổng số hơn 5.000 chết và bị thương[2][3]
Tổng số: 7.756 chết, hàng nghìn bị thương[3]
B52 đã ném 860.000 tấn bom vào miền bắc trong 3 năm chiến tranh phá hoại
Trong cuộc chiến tranh phá hoại miền Bắc lần thứ nhất, từ tháng 3-1965 đến tháng 11-1968, Không quân Mỹ (KQM) chủ yếu dùng máy bay F-105D Thần sấm. Được gọi là “lính xung kích của Mr Namara” nhưng loại này có đầy nhược điểm: tốc độ bay chậm, chỉ cường kích được ở trạng thái bổ nhào, tính cơ động tránh hoả lực phòng không kém, khả năng tự vệ kém nên phải có tiêm kích F-4 Con ma bay hộ tống.
Bác sỹ Đặng Thuỳ Trâm
Khám tuyển quân sự (Hải Phòng, 1967
Chia tay những người lính trẻ lên đường ra mặt trận (Thanh Liên, Nam Hà, 1968)
Tám sinh viên của nhóm 109 mừng rỡ khi nhận được giấy trúng tuyển quân sự (Hà Nội, 7-1971)
vượt trường sơn
Xây cầu (1966
PHÁ NÚI MỞ ĐƯỜNG
`Huyền thoại Trường Sơn`
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Mai Văn Quyết
Dung lượng: |
Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)