3 nhà văn viết cho thiếu nhi: võ quảng, trần đăng khoa, phạm hổ

Chia sẻ bởi Nguyễn Thị Thanh Thư | Ngày 21/10/2018 | 42

Chia sẻ tài liệu: 3 nhà văn viết cho thiếu nhi: võ quảng, trần đăng khoa, phạm hổ thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

CHÀO MỪNG QUÍ THẦY CÔ
ĐẾN DỰ GIỜ
DANH SÁCH TỔ 1:
Nguyễn Thị Xuân (nhóm trưởng)
Nguyễn Thị Thanh Thư (thư kí)
Nguyễn Thị Mai
Nguyễn Thị Hường
Ma Kim Thùy
Chu Thị Lệ
Đào Thị Duyên
Dương Thị Lưu
Lường Thị Hoài
Ngô Thị Điệp
Lương Thị Hương

* NHÓM 1: 1. Ma Kim Thùy
2. Chu Thị Lệ
3. Lương Thị Hương
4. Nguyễn Thị Hường
Nhiệm vụ: tìm hiểu tác giả VÕ QUẢNG
* NHÓM 2: 1. Nguyễn Thị Xuân
2. Nguyễn Thị Mai
3. Nguyễn Thị Thanh Thư
Nhiệm vụ: tìm hiểu tác giả PHẠM HỔ
* NHÓM 3: 1. Ngô Thị Điệp
2. Lương Thị Hoài
3. Đào Thị Duyên
4. Dương Thị Lưu
Nhiệm vụ: tìm hiểu tác giả TRẦN ĐĂNG KHOA

NHIỆM VỤ: BẮT BUỘC
PHẦN 1: TÌM HIỂU 3 TÁC GIẢ
PHẠM HỔ
VÕ QUẢNG
TRẦN ĐĂNG KHOA
TÁC GIẢ PHẠM HỔ
A. Vài nét về tác giả tác phẩm
I. Tiểu sử
-Phạm Hổ sinh 28-1-1926
- Sinh ra tại 1 làng quê Bình Định- xã Nhơn An-huyện An Nhơn
- Lúc bé học ở trường làng, sau đó theo gia đình xuống Quy Nhơn rồi ra Huế.
- Sau đó theo người anh trai là Phạm Văn Kí ra học tiểu học ở Huế, sau khi anh trai đi du học ở Pháp, Phạm Hổ lại trở về Bình Định học trường Quốc học ở Quy Nhơn
1943 đỗ bằng thành chung. Hè năm đó bị tai nạn gãy chân không ra Huế kịp để học ban tú tài trường Quốc học Huế, đành làm thư kí công nhật ở Tòa Sứ Quy Nhơn
Cm T8 thành công ông đi hẳn vào con đường văn học và làm thư kí thường trực ở chi hội văn hóa cứu quốc
1947 là biên tập báo Bình Định và được cử đi học lớp hội họa kháng chiến liên khu 5 do họa sĩ Nguyễn Đỗ Cung phụ trách
1949 ông đi sáng tác ở miền tây Bình Định
Cuối 1949-1950 ông được cử đi cùng với anh Nguyễn Văn Bổng ra dự hội nghị văn hóa toàn quốc ở Việt Bắc
1951 nhân có chủ trương giảm chế của nhà nước ông xin về quê, vừa làm thông tin tuyên truyền ở xã vừa kết hợp giúp đỡ gia đình
Tháng 4-1954 ông được chi hội văn nghệ liên khu 5 gọi ra để chuẩn bị đi tập kết
Tháng 1-1955 có mặt ở HN và làm công tác đối ngoại ở HN văn nghệ trung ương
1957 được kết nạp vào hội nhà văn VN ngay ở khóa đầu tiên nên được xem là thành viên sáng lập hội
Cũng năm ấy ông cùng với các anh Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài chuẩn bị và xin thành lập NXB KIM ĐỒNG
1960 ông làm tổng biên tập NXB VH
1965-1983 từ biên tập viên lên tổ trưởng tổ thơ, rồi ủy viên ban biên tập rồi phó tổng biên tập thứ nhất của báo
1968 ông lại vào Vĩnh Linh “Lũy thép” để lấy tài liệu sáng tác
1972 vào Quảng Trị cùng với 1 số nhà văn để lấy tài lệu sáng tác
1983 ông về hội nhà văn làm phó trưởng ban đối ngoại của hội và chủ tịch hội đồng văn học thiếu nhi của hội
1995 ông về hưu nhưng vẫn tiếp tục sáng tác thơ văn cho thiếu nhi và người lớn
II. Sự nghiệp sáng tác
Những ai quan tâm tới nền văn học Việt Nam hiện đại hẳn đều biết tên tuổi nhà văn Phạm Hổ. Ông là một nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi trong đó viết cho cả người lớn. Hơn nửa thế kỷ cầm bút, Phạm Hổ đã tạo được một sự nghiệp văn chương phong phú bao gồm thơ, truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết và kịch. Dù viết theo thể loại nào, Phạm Hổ cũng đều đạt được những thành công quan trọng. Ông thực sự  đã tạo được cho mình một phong cách nghệ thuật riêng
Trong khoảng thời gian từ 1945 đến 1999 ông đã sáng tác được khoảng 25 tập thơ, 35 tập truyện, 10 kịch bản sân khấu hoạt hình dành cho thiếu nhi. Và khoảng 10 tập thơ, 3 tập truyện ngắn và tiểu thuyết viết cho người lớn
các tác phẩm chọn lọc
* Sách viết cho thiếu nhi:
Thơ : Chú bò tìm bạn(tuyển tập thơ. Chọn từ hơn 15 tập thơ in riêng từng tập xuất bản 1997
Truyện: Chuyện hoa và quả XB 1993
Kịch: Mỵ Châu – Trọng Thủy XB 1993

* Sách viết cho người lớn:
Thơ : + Những ngày xưa thân ái (1956)
+ Ra khơi (1960)
+ Đi xa (1973)
+ Những ô cửa - những ngả đường(1982)
Truyện: + Vườn xoan (1962)
+ Tình thương (1973)
+ Cây bánh tét của người cô (1993)
Khác với nhiều người, Phạm Hổ chọn con đường đi vào thế giới tâm hồn trẻ thơ. “Đối với tôi, được viết cho các em là cả một hạnh phúc”. Rất nhiều lần, ông đã phát biểu như vậy.
. Trên cơ sở hiểu biết về đối tượng, Phạm Hổ đã không ngừng tìm tòi những nội dung, những hình thức biểu đạt phù hợp, khiến cho mỗi bài thơ là một niềm vui dành tặng cho các em.     
B. Sáng tác của Phạm Hổ
I. Nội dung
1. Thơ
a) Thơ tình bạn
Đây là nội dung chủ đạo xuyên suốt trong thơ Phạm Hổ. Ông đặc biệt chú ý đến tình bạn trong cuộc sống con người, trong số 20 tập thơ viết về các em thì có 6 tập thơ ông viết về tình bạn ông viết về 3 chủ đề được phân định rõ ràng. Vì trẻ em rất vốn khát khao tình bạn.
+ Những người bạn trong vườn
+ Những người bạn là con vật
+ Những người bạn là đồ vật
Xây dựng chủ đề tình bạn là một chủ ý nghệ thuật của Phạm Hổ. Ngoài việc đặt tên cho từng tập thơ theo chủ đề tình bạn, ông cũng kết hợp tạo ra những hệ thống: bạn trong nhà, bạn trong vườn, những người bạn im lặng, những người bạn ồn ào… Tất cả những việc làm này không ngoài mục đích tô đậm cảm hứng tình bạn trong thơ ông.
* Trước hết những người bạn trong thơ ông là những con vật ngộ nghĩnh đáng yêu. Ông viết về những người bạn nhỏ mà các em vẫn gặp trong cuộc sống hàng ngày như: chó, mèo, vịt, ngan, bê, chim ….
- Bài thơ “Chú bò tìm bạn”
Mặt trời rúc bụi tre
Buổi chiều về nghe mát
Bò ra sông uống nước
Thấy bóng mình ngỡ ai
Bò chào: “kìa anh bạn
Lại gặp anh ở đây !”
….Bóng bò chợt tan biến
Bò tưởng bạn đi đâu
Cứ ngoái trước nhìn sau
“Ậm ò “ tìm gọi mãi…
=> 1 chú bò hiền lành nhưng thật là ngốc nghếch
- Bài thơ “Bê đòi bú”
- Nhanh cho con bú tí
Đói, đói rồi mẹ ơi
- Gì mà nhặng lên thế
Mới nhả vú đấy thôi
Nhả vú là đói rồi
Mẹ ơi con bú tí!!!
=> 1 chú bê nũng nịu háu ăn, rối rít tìm mẹ đòi bú..
- Bài thơ “ Thỏ dùng máy nói”
Thỏ đây !ai nói đấy?
Mèo à? Mèo thế nào
Mình không trông thấy cậu
Nhỡ đứa khác thì sao?
=> 1 chú thỏ đa nghi, ngốc nghếch dùng máy nói mà cứ phải đòi nhìn thấy người ở đầu dây bên kia.
- Bài thơ “ Ngủ rồi”
Gà mẹ hỏi đàn gà con
Đã ngủ chưa đấy hả?
Cả đàn gà nhao nhao
Ngủ cả rồi đấy ạ!
=>đây là 1 đàn gà con nhí nhảnh hồn nhiên trả lời khi mẹ hỏi…
=> Từ những bài thơ trên ta có thể thấy mỗi bài thơ của ông là một câu chuyện nhỏ, trong đó là những tiếng cười hóm hỉnh, sảng khoái. Thế giới con vật hiện lên ngộ nghĩnh ngây thơ, đáng yêu như thế giới của các em trong cuộc sống hàng ngày đầy ấn tượng, nhầm lẫn và thắc mắc…
*
* Những người bạn trong vườn:
Ông cho rằng, trong thơ cho nhi đồng, nhất thiết phải có hình tượng thiên nhiên. Theo ông, thiên nhiên là hiện thân của cái đẹp. “Bằng chính cái đẹp, thiên nhiên dạy cho ta yêu cái đẹp. Bằng chính sự phong phú, thiên nhiên gợi cho ta nên có cuộc sống phong phú về vật chất, về tinh thần”. Ông cũng đòi hỏi thơ cho lứa tuổi nhi đồng cần phải vui tươi, hấp dẫn.
Những người bạn trong vườn là những cây cối dâng hoa thơm, quả ngọt và màu xanh tươi cho cuộc sống đó là: thị, na, chuối, ổi, nhãn…
“Trên cây mới xuống
Sáng màu trời xanh
Roi này: ngọc hồng
Roi này: ngọc trắng..”
( Roi )
“Mỗi cây một quả
Lá gai xương cá
Con sóc đến mùa
Trộm tối, trộm trưa”..
( Dứa )
=> Qua những bài thơ đó Phạm Hổ không chỉ giới thiệu cho các em biết về đặc điểm công dụng của mỗi loại cây, quả mà còn muốn gợi cho các em lòng yêu cuộc sống, yêu bạn bè, yêu đất nước, và biết ơn những người lao động
* Những người bạn là đồ vật:
Đi vào thế giới thơ Phạm Hổ, ta bắt gặp tất cả những gì quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của các em. Đó là cái kéo, cái chổi, dây cầu chì, …Tất cả đều có mặt trong thơ ông một cách tự nhiên, dung dị. Thực ra, những nhân vật này cũng hiện diện trong sáng tác của hầu hết các nhà thơ viết cho thiếu nhi.
“Chân nhọn, đầu tà
Thân hình thẳng tuột
Chôn mình vào cột
Chôn mình vào tường..
( Đinh )
“Thích buộc nhiều thắt lưng
Cả đời không đi dép
Chổi múa dạo một vòng
Rác trong nhà biến sạch”.
( Chổi )
=> Ông đã khéo léo mượn đồ vật để nói đến với các em một điều thật giản dị mà vô cùng sâu sắc: tình bạn thật cần cho con người, hãy sống với nhau bằng những tình thương và lòng nhân ái bạn sẽ có nhiều bạn tốt và nhiều niềm vui
b) Thế giới của trẻ thơ và những khán phá bất ngờ thú vị
Phạm Hổ đã dẫn dắt các em đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Phát hiện ra những chuyện rất thật mà lạ vô cùng như:
+ Qúa trình hình thành của chú gà con từ quả trứng
“Lòng trắng lòng đỏ
Thành mỏ thành chân
Cái mỏ tí hon
cái chân bé xíu…”
( Mười quả trứng tròn)

+ Tai châu chấu ở chân chứ không phải ở đầu
+ Cây lạc nở hoa nhưng lại giấu củ ở dưới đất
+ còn cây rau bắp cải thì “Xanh mát mắt”
Cây lạc
Rau bắp cải
Con châu chấu
+ Và còn rất nhiều chuyện lạ lùng khác nữa mà các em chịu quan sát kĩ, các em còn thấy bao nhiêu điều lạ như bài: Vịt, Thuyền và cá…

“Gà đẻ ban ngày
Vịt đẻ ban đêm
Gà đẻ: cục tác
Vịt đẻ lặng im”.
( Vịt )
+ Phạm Hổ còn nhìn thấy những điều thú vị trong sự thơ ngây của cuộc sống trẻ thơ hồn nhiên trong trẻo:
“Sao hai kim đồng hồ
Cái chạy nhanh chạy chậm
Vì cái này chân dài
Còn cái kia chân ngắn”
(Kim đồng hồ)
“Có ai đang khóc nhè
Mà soi gương không bố
Một đứa khóc, đủ rồi
Soi chi thành hai đứa”
(Soi gương)
=> Những bài thơ của Phạm Hổ ông sáng tác là nhằm mục đích hướng tới giáo dục các em giản dị xen lẫn nhẹ nhàng mà sâu sắc và thâm túy. Tuy nhiên yếu tố ngộ nghĩnh luôn là tâm điểm trong sáng tác của ông như bài: ngủ rồi, chơi ú tìm, soi gương, kim đồng hồ….
c) Đặc sắc nghệ thuật trong thơ Phạm Hổ
Phạm Hổ là một nhà thơ có nhiều tìm tòi trong nghệ thuật thể hiện. Thơ ông đa dạng về hình thức, nhạc điệu vui tươi, ngôn từ trong sáng.
Những bài thơ thiếu nhi của ông có sắc thái đồng dao, vui chơi ngộ nghĩnh, dễ hiểu dễ nhớ, giàu nhạc điệu, dễ múa hát, kích thích trí tưởng tượng, khơi gợi sự tò mò khám phá, phù hợp với tâm lý trẻ thơ. Ông dựng lại một cách hồn nhiên.
* Sử dụng chất liệu dân gian:
- Viết theo lối nhại đồng dao
Làm thơ cho các em, Phạm Hổ cũng rất coi trọng vai trò của nhạc điệu. Ông viết : « Viết thơ cho các em bé, theo tôi, rất cần chú ý đến nhạc điệu. Nhiều khi các em nhớ được là nhờ nhạc điệu . Nhạc điệu của thơ liên quan chặt chẽ tới việc sắp xếp, tổ chức câu thơ, vần và nhịp. Phạm Hổ thường hay sử dụng thể thơ hai, ba, bốn hoặc năm chữ. Nhịp thơ ông thường ngắn, có giá trị miêu tả hiện thực.
+ Chẳng hạn, nhịp 2/2 ở bài Sen nở gợi tả những cánh sen đang từ từ hé mở : ”Từ từ / Khẽ mở /  Trăm nghìn / Cửa lụa / Xinh tươi /  Sáng hồng..”.
+ Bài Tàu dài lại gợi hình ảnh đoàn tàu nhiều toa, đang chuyển động một cách nhịp nhàng, đều đặn.
- Cách gieo vần khéo léo đến lối nhân hóa ngộ nghĩnh, và sử dụng từ láy đặc sắc làm cho âm thanh bài thơ có sức sống kì lạ như bài: củ cà rốt, một ông trăng, sáo đậu lưng trâu….
“Lá xanh
Củ đỏ
Lớn nhỏ
Bên nhau…

“Một bầu trời
Một ông trăng
Mỗi một tháng
Một làn tròn

Một ông trăng
Nghìn ông trăng”.
(Một ông trăng)
Tên em
Cà rốt
Củ đỏ
Lá xanh”

( Củ cà rốt)
- Thơ ông còn mang màu sắc cổ tích huyền thoại như bài: khế, thị, dưa hấu…
…Người qua nhìn lên
Thị thơm nhìn xuống
Thị muốn theo về
Chơi cùng trẻ nhỏ..”
(Thị)
…Ai nặn nên hình
Khế chia năm cánh
Khế chín đầy cây
Vàng treo lóng lánh..”
(Khế)
- Ngoài ra thơ ông còn mang yếu tố ngụ ngôn như bài thơ: Ngỗng và vịt..
Ngỗng không chịu học
Khoe biết chữ rồi
Vịt đưa sách ngược
Ngỗng cứ tưởng xuôi
Cứ giả đọc nhẩm
Làm vịt phì cười
Vịt khuyên một lần
Ngỗng ơi! Học! Học!.
* Hệ thống âm thanh nhịp điệu độc đáo:
- Khi sáng tác ông rất chú ý đến âm thanh nhịp điệu để trẻ hình dung được nhiều động tác, hành động như bài thơ: Tàu dài, Máy khâu….
“…Chân mang sợi chỉ
Cây kim cứ nhảy
Nhảy hoài một chỗ
Nhảy mà như mổ
Vải cứ…trôi…trôi…”
(Máy khâu)
* Sáng tác theo hình thức đối đáp
- Ngoài hình thức tổ chức thông thường, thơ Phạm Hổ còn sử dụng các hình thức khác. Đó là hình thức hỏi – đáp, hình thức định nghĩa và hình thức trích dẫn. Hình thức hỏi - đáp xuất hiện nhiều trong thơ Phạm Hổ. Trong cuộc sống, trẻ em vẫn thường hay hỏi người lớn về nhiều điều. Hay hỏi là một nét tính cách đặc trưng, hệ quả tất yếu của một nhu cầu ham hiểu biết của trẻ. Người lớn trong trách nhiệm của mình cần phải giúp trẻ giải quyêt những thắc mắc.
- Trả lời cho trẻ là cả một nghệ thuật giao tiếp mà không phải ai, lúc nào cũng làm được.  Trong những bài thơ hỏi – đáp của mình, Phạm Hổ khi thì sử dụng nhân vật loài vật, khi thì sử dụng nhân vật con người. Song dù sử dụng loại nhân vật nào thì ông cũng đều nêu ra được vấn đề mà trẻ em quan tâm, đáp án phù hợp với đối tượng. Giọng thơ tâm tình, nhẹ nhàng, có sức thuyết phục lớn.
+ Một ví dụ: “Cua con hỏi mẹ/ Dưới ánh trăng đêm :/  - Cô lúa đang hát/ Sao bỗng lặng im ? Đôi mắt lim dim/ Mẹ cua liền đáp :/ - Chú gió đi xa/ Lúa buồn không hát.(Cua con hỏi mẹ). Bài thơ trên gồm lời hỏi của cua con và lời đáp của cua mẹ. Cua mẹ đã giải thích với cua con rằng, vì chú gió đi xa nên cô lúa buồn, cô thôi không hát nữa. Lời giải thích này dễ được trẻ chấp nhận. Chuyện “cô lúa không hát” thấm đượm tình cảm con người.
2. Truyện
- Về văn xuôi, đặc sắc nhất trong sáng tác của Phạm Hổ là bộ “Chuyện hoa và chuyện quả”. Đây là những chuyện được viết theo lối cổ tích hiện đại. Tác giả kể về sự tích các loài hoa, loài quả và lí giải tại sao lại có thứ cây, thứ quả ấy, cũng như cái tên mà hiện những cây , quả đó đang có.
- Trong mỗi câu chuyện bạn đọc sẽ gặp cùng một lúc 2 câu chuyện mà tác giả muốn thể hiện, đó là chuyện về cây, hoa, quả, và chuyện về con người. Thế gới hoa quả phong phú không chỉ cho các em làng yêu thiên nhiên mà còn kích thích các em sự trân trọng, bảo vệ thiên nhiên và tìm hiểu thiên nhiên như một kho báu vô tận. Mỗi câu chuyện được kể về một thứ cây. Tác giả cố gắng quan sát những đặc điểm bề ngoài dễ nhận biết và gọi đúng tên chúng bằng 1 hình ảnh thật cụ thể và ấn tượng nhưng cũng hết sức lãng mạn.
VD: Những bàn tay nhiều ngón (hay là sự tích cây chuối) ; quả tim bằng ngọc (hay là sự tích quả loong boong) ; những con ốc kì lạ (sự tích quả roi) ; cái ô đỏ (sự tích hoa râm bụt )….tác giả đã giải thích nguồn gốc xuất hiện, lí do của mỗi 1 cái tên mà chúng mang, cũng như tính chất tác dụng của mỗi 1 thứ cây, hoa, quả trong cuộc sống. Điều đáng nói là từ mỗi giống cây ấy tác giả đã nhìn ra số phận con người. Theo quan niệm của ông sự tích hoa, quả bao giờ cũng gắn 1 phương diện nào đó trong đời sống lao động, chiến đấu và tình cảm con người.
- Trong 50 câu chuyện kể về sự tích của 50 loài cây, hoa, quả tác giả đã cố gắng tìm tòi những cách thể hiện khác nhau để không chuyện nào giống chuyện nào, để mỗi chuyện là một mới lạ, một hấp dẫn. Thế giới tự nhiên qua cái nìn của ông bỗng nhiên bừng sáng, và cũng qua những câu chuyện này, ông đã góp phần tích cực mở rộng trí tưởng tượng của các em
VD:
+ Truyện tiếng sáo và con rắn (sự tích hoa thiên lí) đem đến cho người đọc 1 cảm giác hồi hộp. 1 con rắn vì mê tiếng sáo của 1 chàng trai mà đã biến thành 1 người phụ nữ giống hệt vợ anh ta. Khiến chàng trai không thể nào nhận ra được, chàng trai phải nhờ 1 cụ già nổi tiếng trong vùng về sự phân biệt phải trái giúp. Qua 3 lần thử thách tinh tế của cụ già ,cô vợ giả đã phải “hiện nguyên hình là con rắn lục,bò nhanh vào bịu cây trốn mất”,vợ chồng chàng trai thổi sáo tài giỏi được đoàn tụ. “một buổi chiều,người vợ đang gội đầu,người chồng đang thổi sáo thì bỗng có con chim gì thả rơi ở bên chân người vợ 1 chùm hoa màu xanh phớt vàng hình giống như ông sao năm cánh,hương thơm dịu ngọt…”người ta đã lấy tên thiên lý để đạt cho hoa để kỉ niện cô gái có tên là lý,vì tình yêu mà có thể cách xa “trăm dặm,nghìn dặm vẫn nhận ra được chồng mình”.
+ Truyện bài thi nhập học (sự tích cây nhân sâm) đưa ra một tình huống giải đố,khêu gọi trí tò mò và tác động tích cực vào trí não của trẻ em. Để được nhận vào học,trò phải tìm ra được những chữ thích hợp để điền vào 4 bức tranh:bức thứ nhất vẽ đôi đũa,bức thứ hai vẽ cái nhà,bức thứ ba vẽ vườn rau và bức thứ tư vẽ cây nến đang cháy. Mỗi học trò tìm ra được 1 cách giải riêng tùy thuộc vào nhận thức và tâm tính của mình…người học trò nghèo giải đáp bằng một chữ người vì theo cậu “ăn băng đũa thì chỉ có con người…,cất nhà mà ở chỉ có con người…,trồng thành vườn rau vườn quả chỉ có con người…,và biết học hành chỉ có con người”…vì vậy bài của thầy ra tóm lại chỉ có một chữ Người và ý của thầy là muốn dạy bảo học trò phải nhớ mình là Người,và học trước hết là học làm Người.sau này cậu bé nghèo trở thành học trò giỏi và có hiếu nhất. Đây là một câu truyện cảm động về tình thầy trò, về truyền thống tôn sư trọng đạo.
- Phạm Hổ tỏ ra rất tinh tế khi lựa chọn từ thiên nhiên phong phú những chất liệu gợi hình ,gợi cảm giàu ý nghĩa xã hội
+ Đây là cách đặc tả trái loong boong của ông: “chỉ lớn hơn quả hồng bì một tí. Da nó vàng mát. Cùi nó nhìn trong tronh như ngọc và đặc biệt quả nào cũng có mang một cái dấu như dấu mong tay của ai đó bấm vào” (Quả tim bằng ngọc hay là Sự tích quả loong boong). Những chi tiết mà tác giả miêu tả trái loong boong chính là sự lựa chọn chất liệu,từ dấu hiệu đặc biệt trong cây quả của thiên nhiên “Quả nào cũng mang một cái dấu …cùi nó nhìn trong trong như ngọc”,tác giả đã tưởng tượng ra cái “dấu móng tay” chính là dấu mũi mác của tên nhà giàu độc ác,đâm nhưng đúng vào lúc người mẹ bị mũi mác đâm trúng tim,thì cũng là lúc đứa con yêu quý của bà – bé Mộc “ngực cũng bị mũi mác đâm vào và máu cũng trào ra như suối”. Chi tiết huyền thoại của câu truyện về mối liên hệ kì lạ giữa hai mẹ con ,…kết cục người mẹ bị giết đứa con cũng chết theo là sự triển khai hết sức táo bạo…đó là tình cảm mẹ con vô cùng sâu sắc và cảm động. Phạm Hổ đã diên tả cái tình người đặc biệt này băng một thiên huyền thoài sống động,xuất phat từ dấu hiệu độc đáo, cá biệt của 1 loại quả.
=> Rõ ráng chuyện về hoa, quả nhưng lại chính là chuyện về con người. Qua mỗi câu chuyện, tác giả đã cố gắng gắn nối những chi tiết đẹp của cây với những với tình cảm và phẩm chất tốt đẹp của con người. Nhìn chung, với lối kết thúc “có hậu”, phù hợp với phong cách cổ tích, và tâm lí trẻ thơ, chuyện hoa, chuyện quả đã gây ấn tương sâu sắc và có sức hấp dẫn đối với các em, khơi mở trong các em những suy ngẫm về tình yêu, tình thương, lòng nhân đạo và khả năng hướng thiện của con người.
=> Trong tương quan với các nhà thơ viết cho thiếu nhi, Phạm Hổ là người viết nhiều và viết hay. Thơ cho lứa tuổi nhi đồng của ông có nhiều đặc sắc về nội dung cũng như nghệ thuật. Nói tới ông là nói tới một nhà thơ của tình bạn, một cây bút với nhiều sáng tạo về hình thức biểu hiện. Ông thực sự có một vị trí quan trọng trong nền thơ cho thiếu nhi Việt Nam.
TÁC GIẢ VÕ QUẢNG
I. Vài nét về tác giả:
1.Tiểu sử:
-Võ Quảng (1-3-1920)
sinh ra trong một gia đình nho trung lưu ở xã Đại Hòa, huyện Đại Lộc, Quảng Nam, Đà Nẵng
15 tuổi học ở trường Quốc học Huế
17 tuổi tham gia phong trào học sinh yêu nước, gia nhập đoàn thanh niên dân chủ
19 tuổi gia nhập đoàn thanh niên phản đế
21 tuổi bị pháp bắt giam ở nhà nho thừa phủ
Sau cm t8- 1945 ông làm phó chủ tịch ủy ban kháng chiến hành chính Đà Nẵng
1948 là phó chánh án tòa án quân sự miền Nam VN, hội thẩm nhân dân tòa án nhân dân lk 5
1954 ông tập kết ra bắc, ông từ chối con đường hoạt động chính trị để đi theo nghề viết văn
1957-1964 ông là tổng biên tập đầu tiên của nhà xuất bản KIM ĐỒNG

Năm 1965, ông được kết nạp làm Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Năm 1968, ông về công tác tại Bộ Văn hóa,
Năm 1971, về Hội Nhà văn Việt Nam, được phân công làm chủ tịch Hội đồng Văn học Thiếu nhi Hội Nhà văn Việt Nam và giữ chức vụ này đến khi về hưu.

- Năm 2007, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
- Ông qua đời lúc 11 giờ 20 phút ngày 15 tháng 6 năm 2007 tại Hà Nội. Mộ phần của ông đang đặt tại nghĩa trang tỉnh Vĩnh Phúc.

2. Sự nghiệp sáng tác
Võ Quảng viết nhiều thể loại: thơ, văn, tiểu luận phê bình, kinh nghiệm và lí luận sáng tác văn học thiếu nhi. Ngoài ra ông còn dịch sách cho các em, là người rất tâm huyết với nghề
Võ Quảng quan niệm:” không nên dè sẻn, không nên tính toán rằng mình sẽ véo mẩu này trong toàn bộ vốn liếng của mình ra để viết truyện này, còn mẩu kia thì dành viết truyện khác. Mỗi khi viết 1 truyện dù nhỏ nhất, nhà văn cũng phải dốc hết cả cuộc đời dành chọn cả tấm lòng và sự hiểu biết của mình vào đó.”
II. Những thành tựu sáng tác của Võ Quảng
1. Thơ viết cho trẻ em:
- Thơ Võ Quảng chủ yếu viết cho lứa tuổi nhỏ(lứa tuổi mẫu giáo và đầu tiểu học). Ông thường viết những bài thơ xinh xắn, nhẹ nhàng mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc. Thơ ông khai thác nhiều vấn đề của cuộc sống nhưng nội dung chủ yếu mà ông muốn đem lại cho các em là lòng yêu thiên nhiên, yêu thế giới cỏ cây, loài vật để từ đó hướng các em tới một mục đích cao rộng hơn là lòng yêu cái đẹp, yêu thiên nhiên.
Các tập thơ tiêu biểu:
+ Gà mái hoa (1957)
+ Nắng sớm (1965)
+ Anh đom đóm (1970)
+ Qùa đó (1970)
+ Măng tre (1972)
+ Én hát và đu quay (1972)
a) Thế giới thiên nhiên sinh động và lộng lẫy
* Cảnh vật thiên nhiên với bức tranh lộng lẫy:
- Võ Quảng xây dựng vẽ nên những bức tranh lộng lẫy của cảnh vật thiên nhiên. Tất cả những nét đặc trưng của 4 mùa: xuân, hạ, thu, đông, đề được ông thâu tóm những nét điển hình nhất của đất trời
- Ông phát hiện ra những vẻ đẹp kì diệu của thiên nhiên từ những chi tiết gần gũi nhất. Thiên nhiên như bừng tỉnh phô diễn “các màu sắc quý” cùng làm cho mùa xuân thêm tươi tắn.
Đó cũng có thể là con đường nhỏ với bụi ngải hoang “ mọc chen bồm bộp”; Là một chỗ chơi với “ hoa sen sáng rực, như ngọn lửa hồng”; một mầm non khi mùa xuân tới bỗng bật dậy “khoác áo màu xanh biếc…”
Những chi tiết được ông chọn lọc để miêu tả thiên nhiên thường có sức gợi, sức khái quát
VD: Một thoáng đổi thay của đất trời khi mùa xuân chợt đến được ông miêu tả qua sự thức tỉnh kì diệu của chổi biếc:
Mầm non mắt lim dim
Cố nhìn qua kẽ lá
Thấy mây bay hối hả
Thấy lất phất mưa phùn… (Mầm non)
Và đây là mùa hạ được gợi tả qua nét vẽ cảnh hồ sen:
Hoa sen sáng rực
Như ngọn lửa hồng
Một chú bồ nông
Mải mê đứng ngắm
Nước xanh thăm thẳm
Lồng lộng mây trời
Một cánh sen rơi
Lung linh mặt nước
(Có một chỗ chơi)
Bài thơ mang phong cách cổ điển: vẽ mây nẩy trăng, lấy động tả tĩnh. Tác giả miêu tả âm thanh tiếng động của cánh sen rơi, nhưng lại thấy toát lên sự tĩnh lặng. Một cánh sen rơi đủ làm mặt nước rung rinh gợn sóng. Không gian yên tĩnh, thoáng đãng và trong lành như được ướp hương sen, và chú bồ nông kia như cũng bị thôi mien trong cảnh sắc này
Và với nhà thơ mỗi mùa có một đặc trưng riêng vẻ đẹp riêng và đó là vẻ đẹp của đất nước và dân tộc
*Thế giới loài vật và cây cỏ
. Thế giới loài vật: Không chỉ vẽ lên những cảnh sắc thiên nhiên tươi mới, Võ Quảng còn cho các em tiếp xúc với một thế giới cây cỏ và loài vật hết sức phong phú, đa dạng
Nhà thơ NGÔ XUÂN MIÊN đã có nhận xét: “ trong thơ anh (Võ Quảng) có một mảnh vườn bách thú và bách thảo mà những em bé nào có cái may mắn được vào đều say mê và yêu thích”. Quả đúng là như vậy vườn thơ của ông khá giàu có về các loại chim thú và cây cỏ.
Thơ Võ Quảng là thế giới của con trẻ và thế giới của hoa cỏ, loài vật, qua cách nhìn con trẻ. Một thế giới vui ngộ, cái vui lao động, nẩy nở, sinh sôi.
- Trước hết trong thơ ông là một xã hội chim thú rất đông vui và sinh động:
Gần gũi nhất với con người là : mèo, vịt, gà, chó, trâu, bò, lợn…

+ Con bê lông vàng “đi qua vườn ớt, nhìn sau nhìn trước, đi qua vườn cà, đi vào đi ra, đi tìm mẹ nó”. Bê “không thấy mẹ” mà “thấy cái hoa nở”.
Nó bước lại gần
Nó đứng tần ngần
Mũi kề, hít hít
+ Gà mái hoa bỗng nhiên trái chứng, đổi nết. Hoá ra nó đang đi tìm ổ. Khi đã có ổ nó nằm yên để ấp. Nó mang lại niềm vui cho cả nhà
- Xa hơn là các loài biết bay trên trời cao: chim chào mào, cò vạc, cò, quạ, chim vàng anh
Con quạ
Con cò
Chim chào mào
Con vạc
Chim chào mào
- Và ngay cả những con vật ở rừng: thỏ, nai, cáo, voi, hổ…
Ai đó? Mời vào. Một hoạt cảnh thật vui, những “nhân vật” ở đây như Thỏ, Nai, Vạc, Gió chưa hề quen nhau mà đầy lòng hiếu khách.
Biết bao thế hệ ông bà nội ngoại, từng ngồi bên cháu trước những trang tranh truyện Mời vào để cùng nhận diện mấy vị khách lạ sau ba tiếng gõ cửa: Cốc, cốc, cốc.
- Những con vật dưới nước: cá, bồ nông, chẫu chàng, ếch..
=> Tất cả họp lại 1 xã hội chim, thú rất đông vui, đầy những tiếng hót, tiếng kêu, tiếng vỗ cánh…ríu rít, inh ỏi như thế giới trẻ thơ đầy ắp tiếng nói, tiếng cười, tiếng hát thật nhộn nhịp và đáng yêu. Võ Quảng đã thổi vào trong những loài vật ấy một tâm linh để chúng hiện lên có hồn, có hoạt động như con người. Võ Quảng thường dựng lên những cảnh rất sống động, trong đó những nhân vật (con vật)hiện lên với những hoạt động, động tác của chúng rất linh hoạt và ngộ nghĩnh.
VD: + Bạn đọc thú vị khi gặp trong thơ ông một con trâu mộng
“Trợn tròn đôi mắt
Nó cứ nhìn nhìn
Coi bộ không tin
Những người lạ mặt”
(Con trâu mộng)
+ Hay một chú chó vàng tinh nghịch thấy cái gì cũng sủa, cũng chọc vào, đến nỗi chọc cả vào tổ ong, để ong đốt sưng vêu cả mặt
(Một chú chó vàng)
+ Hay con lợn phàm ăn:
“ Lưng mày múp míp
Mắt mày béo híp
Đuôi mày ngúc ngoắc
Miệng mày nhóp nhép
Mũi mày hít hít
Ụt ịt ! ụt ịt !..
(Con lợn)
=> Tác giả viết về con vật như viết những cảm xúc, những suy nghĩ của tuổi thơ mình. Và bạn đọc, đọc thơ ông như cũng được gặp lại chính tuổi thơ của mình ở đó.
. Về loài cây cỏ:
những bài thơ của Võ Quảng con viết về cây cỏ thường rất tươi tắn với màu sắc rực rỡ: trong bài thơ “Ai cho em biết”
“Hoa cải li ti
Đốm vàng óng ánh
Hoa cà tim tím
Nõn nuột hoa bầu
Hoa ớt trắng phau
Xanh lơ hoa đỗ
Cà chua vừa độ
…xanh ngắt hàng hành
xanh lơ cải diếp..”
=> Cỏ cây thiên nhiên trong thơ Võ Quảng thường mang một sức sông mãnh liệt. Khiêm nhường như một (Mầm non) cũng biết “bật chiếc vỏ rơi” để “đứng dậy giữa trời”, mạnh thì như rừng núi đồi nương “đâm toạc màn sương, mở ra cõi đất”…có thể nói Võ Quảng yêu hồn nhiên và thắm thiết thế giới cỏ cây và vạn vận xung quanh. Chính vì thế thơ ông thường có những sững sờ, đột ngột, chứa chất một cái gì đột biến trong bừng tỉnh trong nảy nở và sinh sôi, vô cùng tươi mới…
b) Những bài học giáo dục đầu tiên về cuộc sống
Là nhà văn tâm huyết với sự nghiệp giáo dục trẻ thơ. Võ Quảng quan niệm: “văn học viết cho thiếu nhi còn đặt ra vấn đề chính yếu thứ 2, đó là vấn đề giáo dục: giáo dục cái hay, cái đẹp cho thiếu nhi. Người viết cho thiếu nhi là một nhà văn, nhưng đồng thời cũng là một nhà giáo, muốn các em trở nên tốt đẹp.”chính vì vậy ta thường bắt gặp trong thơ ông một ý nghĩa giáo dục cụ thể, hướng các em vào những việc làm tốt như: chăm học, chăm làm, giúp đỡ bố mẹ….
Nhưng đó không phải là lời giáo huấn khô khan, gò ép mà ông đã khéo léo gài lồng ý nghĩa giáo dục trong những hình ảnh nghệ thuật đẹp đẽ.
VD: trong bài thơ AI DẬY SỚM Võ Quảng viết:
“Ai dạy sớm Cả vừng đông
Bước ra nhà Đang chờ đón
Cau ra hoa Ai dậy sớm
Đang chờ đón Chạy lên đồi
Ai dậy sớm Cả đất trời
Đi ra đồng Đang chờ đón”.
=> Với quan niệm của mình, Võ Quảng đã sáng tác những bài thơ không chỉ giúp các em phát hiện ra những cái đẹp xung quanh, cái đẹp của thiên nhiên mà còn giúp các em hiểu được cái đẹp ấy chính là nhờ bàn tay lao động nhờ công việc của con người.
Thơ Võ Quảng luôn hàm chứa một cái gì đột biến trong bừng tỉnh, nẩy nở, sinh sôi.
Võ Quảng yêu hồn nhiên và thắm thiết thế giới hoa cỏ và loài vật quanh ta. Ông thổi vào chúng sự sống vui và làm cho các em cùng chúng ta vui cái vui của sự sống bình thường. Cứ như vậy ông góp phần làm giàu đời sống tinh thần của con người, bắt đầu từ tuổi thơ; và giúp cho con người kéo dài sự tươi tắn của tuổi thơ. Thơ Võ Quảng ít nói điều gì cao xa, to tát, trừu tượng.
Ý kiến của Võ Quảng sau đây về thơ cho thiếu nhi cũng hoàn toàn phù hợp với thơ ông: “... với những mảnh vải thông thường nhà thơ có nhiệm vụ phải may thành những bức thảm đầy đủ màu sắc sinh động và tươi vui. Keo vật có mệt là vì những hạn chế đó. Và trong keo vật đó, người làm thơ có cảm giác không phải cố dốc hết sức ra, mà có lúc phải cố sức giảm sức đi, làm nhỏ lại, cố cho thơ trẻ ra và rũ hết những hiểu biết cồng kềnh”.
=>Ông chỉ nói những chuyện nhỏ nhẹ, bình thường, với giọng khiêm nhường, nhiều khi vui hóm hỉnh, ngộ nghĩnh. Nhưng mặc dù vậy, hay chính vì vậy, thơ ông lại rất giàu ý vị giáo dục.
2.Văn xuôi Võ Quảng viết cho trẻ em
a) Truyện đồng thoại:
Gắn bó với tuổi thơ, Võ Quảng cũng đã dành hết tâm hồn và tài năng cho những thiên đồng thoại nhỏ nhắn và xinh xắn, hồn nhiên và đậm đà sự sống vui, làm gắn bó được nhu cầu ham hiểu biết và hướng về điều thiện của các lứa tuổi trẻ.
Sau Dế mèn phiêu lưu ký của Tô Hoài, chúng ta thật sự được hưởng một niềm vui trẻ thơ mà không hời hợt hoặc khiên cưỡng trong mỗi truyện của Võ Quảng.
Truyện đồng thoại của Võ Quảng được tập hợp trong 2 tập truyện:
+ Những chiếc áo ấm (1970)
+ Bài học tốt (1975)
Với những chuyện tiêu biểu như: chuyến đi thứ hai, bài học tốt, trong một hồ nước, hòn đá, mèo tắm, trăng thức, những chiếc áo ấm….
-> Đây là loại chuyện giàu chất tưởng tượng. Nhưng một điều dễ dàng thấy trong nhũng đồng thoại hay, truyện đồng thoại của Võ Quảng nhẹ nhàng mà thấm thía. Nó đem đến cho trẻ những bài học bổ ích, giúp trẻ vững vàng hơn trong quá trình hoàn thiện nhân cách của mình.
VD: trong truyện “bài học tốt”
Tác giả cho các em được gặp gỡ với một chú Rùa mà ước mơ đi đây đi đó, nhưng lại hay lười, hay ngại, muốn ý vào người khác nên đã bám vào chân ngựa để chạy cho nhanh. Rốt cuộc là rùa bị ngã làm cái mai vỡ ra nhiều mảnh, nhưng thật may, “ những mảnh vỡ sau đó lành lại ”, và cũng từ đó “Rùa rút ra được bài học tốt” . Rùa đã quyết rèn luyện cho mình có được tính kiên nhẫn luyện tập thành công và thắng trong cuộc chạy thi với thỏ.
-> câu truyện dí dỏm này Võ Quảng đã giúp các em nhận thức một điều: sự bám víu tầm gửi trong cuộc sống là điều đáng ghét và nguy hại
VD: Hay đáng chú ý là câu truyện “những chiếc áo ấm”:
Không phải ngẫu nhiên mà Võ Quảng lấy tên truyện này để đặt tên cho một tập sách. Trong truyện các em được gặp một xã hội rừng xanh với muôn loài thật thú vị. Mỗi loài đều có một biệt tài riêng: nhím thì xâu kim, tằm thì xe chỉ, ốc sên vạch phấn, bộ ngựa cắt vải, …tất cả đều biết phát huy hết khả năng của mình, nương tựa sưởi ấm cho nhau trong những mùa đông tháng giá, trong cả cuộc đời. Chúng đã làm nên cuộc sống ở rừng xanh, baih hát rừng xanh. Đó là bài học đẹp đẽ về tính đoàn kết, về sức mạnh của tập thể.
Còn có rất nhiều câu truyện có ý nghĩa khác nữa mà Võ Quảng muốn gửi đến các em. Tất cả đều có tính giáo dục các em trong cuộc sống hàng ngày….
Tất cả câu truyện của ông không ham viết dài. Truyện của ông thường ngắn và động. Chỉ bằng vài nét phác họa, ông đã dựng lên một cảnh trí, một tình huống, mà ở đó có đủ màu sắc, âm thanh sống động, làm toát lên ý nghĩa cũng như tư tưởng của người viết.
* Đặc điểm của truyện đông thoại:
- Truyện của Võ Quảng mang đạm chất dân gian:
+ Trước hết, chất dân gian trong truyện đồng thoại của Võ Quảng thể hiện ở nội dung giải thích đặc điểm tự nhiên của loài vật. Trong truyện kể truyền thống, những sáng tác có nội dung này được xếp thành một bộ phận của thể loại truyện cổ tích, gọi là truyện cổ tích loài vật. Văn học dân gian, về bản chất là những sáng tác chung cho cả cộng đồng. Tuy vậy, vẫn cần thấy rằng, truyện cổ tích loài vật được sáng tạo ra là nhằm thỏa mãn nhu cầu hiểu biết, nhu cầu khám phá thế giới loài vật của các em. Vì sao lông Quạ màu đen? Vì sao Trâu không có hàm răng trên?... Những câu hỏi kiểu như thế vẫn luôn được các em đặt ra cùng với niềm háo hức mong chờ được cắt nghĩa.
+ Khi giải thích đặc điểm tự nhiên của loài vật, Võ Quảng vẫn tiếp tục con đường nghệ thuật dân gian. Ông cũng đưa ra những lời giải thích ngộ nghĩnh, phù hợp với vốn kinh nghiệm và “cái lí” của trẻ em. Chẳng hạn, Mắt Giếc đỏ hoe vì khóc nhiều, Mèo sợ nước nên chỉ tắm khô, tiếng hú của Vượn là dư âm tiếng kêu đau thương về sự mất mát của đồng loại... Cách giải thích như thế, nhìn chung tạo được niềm tin ngây thơ nơi những tâm hồn con trẻ.
+ Chất dân gian trong truyện đồng thoại của Võ Quảng còn được thể hiện qua việc tác giả sử dụng kiểu bố cục tác phẩm theo hai phần trước sau rõ ràng. Mỗi phần có một chức năng riêng, cụ thể: phần diễn truyện mô tả sự việc, phần kết truyện nêu lên hệ quả sự việc.Lối bố cục này là hoàn toàn phù hợp với tầm đón nhận của các em, nhất là các em tuổi nhi đồng. Điểm mới trong các kết truyện của Võ Quảng là việc đưa thêm lời người kể chuyện. Chẳng hạn, “Cho đến ngày nay, khi các bạn đi qua một cánh rừng vẫn còn nghe tiếng hú của Vượn...” (Vượn hú) hay “Riêng về cái mai, mời các bạn hãy xem thật kĩ một con Rùa để biết chuyện tôi kể là có thật” (Bài học tốt……
- Truyện đồng thoại của Võ Quảng mở rộng chức năng phản ánh hiện thực:
+ Võ Quảng cho rằng, truyện đồng thoại có khả năng phản ánh cuộc sống mới, con người mới. Ông viết trong Truyện đồng thoại viết cho thiếu nhi như sau: “Truyện đồng thoại có đầy đủ khả năng phản ánh con người mới, cuộc sống mới, ở khắp nơi, trong một gia đình, dưới một mái trường, ở đồng ruộng, hầm mỏ, công trư�
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Thị Thanh Thư
Dung lượng: | Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)