27 cây quả có chất độc ở VN
Chia sẻ bởi Phạm Huy Hoạt |
Ngày 23/10/2018 |
101
Chia sẻ tài liệu: 27 cây quả có chất độc ở VN thuộc Bài giảng khác
Nội dung tài liệu:
27 Cây cỏ - hoa trái
CÓ CHẤT ĐỘC
CHẾT NGƯỜI
Giới thiệu
Thiên nhiên ưu ái với con người nhưng cũng cho con người nhiều bài học khi không biết tôn trọng thiên nhiên. Cỏ cây hoa trái cho con người các sản phẩm dùng làm thức ăn, uống, làm thuốc, nhưng cỏ cây hoa trái cũng sẽ trừng phạt ai không hiểu về chúng.
TL này cung cấp thông tin về > 20 cỏ cây-hoa tráí (thương thấy ở VN) có chất độc để các bạn tham khảo, tranh bị ngộ độc.
1/ Cây ngót nghẻo
Độc nhất ở rễ củ. Chất độc đáng lưu ý có trong cây là colchicin, chỉ cần 5mg cho 1kg thể trọng cũng đủ gây chết rất nhanh.
Ngộ độc do ăn phải cây ngót nghẻo gây bệnh cảnh cấp tính sau 2 - 6 giờ, đau rát miệng, khát nước sau đó nôn, buồn nôn dữ dội, đau bụng và tiêu chảy, tiêu máu nặng dẫn tới truỵ tim mạch, rối loạn tri giác, co giật, suy hô hấp, tiểu máu, thiểu niệu. Tiếp đó là xuất huyết, thiếu máu, yếu cơ vào những ngày thứ hai, thứ ba tiếp theo. Nếu qua khỏi thường bị rụng tóc sau 1 - 2 tuần.
Đây là loại cây thân thảo dài 1 - 2m, lá hình mũi mác, đầu tận cùng bằng một tua cuộn hình xoắn ốc quấn bám cho thân leo.
Trái dạng nang hình chuỳ dài, chứa nhiều hạt, khi chín có màu đỏ tươi. Mùa hoa vào tháng 5 - 6, mùa quả từ tháng 6 - 8.
2/Cây lá ngón
Chỉ cần một chiếc lá mỏng manh hay chùm hoa đẹp đẽ kia xâm nhập vào cơ thể các loài máu nóng, lập tức độc tính ancaloit sẽ gây ra triệu chứng khát nước, đau họng, chóng mặt, hoa mắt, buồn nôn… sau đó là mỏi cơ, giảm thân nhiệt, hạ huyết áp, răng cắn chặt, sùi bọt mép, đau bụng dữ dội, tim đập yếu, khó thở, đồng tử giãn và chết rất nhanh do ngừng hô hấp.
Mức độ độc của cây giảm theo thứ tự: rễ, lá, hoa, quả, thân cây. Các nhà khoa học đã tìm thấy 17 đơn phân ancaloit gây độc được chiết ra từ lá ngón.
Khi những cơn mưa đầu mùa đổ xuống các cánh rừng ở độ cao 200 - 2.000m, cũng là lúc loài lá ngón Gelsemium elegans khoe sắc từng chùm hoa vàng rực rỡ. Cây và lá ngón rất dễ nhầm với cây rau sắng
3/Cây sui
Từ xa xưa, các thợ săn dân tộc ít người ở miền núi đã biết dùng nhựa của loài cây này tẩm vào mũi tên săn thú rừng, chỉ cần một phát trúng đích thì ngay cả một con bò rừng cũng không có cơ hội sống sót
Có tên KH là Antiaris toxicaria, còn được gọi là cây thuốc bắn. Vỏ cây được một số vùng phía Bắc nước ta lấy sợi dùng làm chăn, nhưng lại có độc tố khủng khiếp.
4/ Cây
bồng bồng
Nhựa của nó với liều thấp sẽ gây nôn, liều cao gây độc mạnh như nhức đầu, chóng mặt, sốt, nổi ban khắp người, yếu sức sẽ bị ép tim, ngủ lịm, khó thở và ngừng thở nếu không được cấp cưu giải độc.
Bồng bồng có tên khoa học Calotropis gigantea, có hoa to, đẹp và mọc rất nhiều ven đường các tỉnh miền Trung.
5/Cà độc dược
Tác dụng dược lý chủ yếu là do các ancaloit: làm giãn phế quản, giãn đồng tử, giảm nhu động ruột và bao tử nếu những cơ quan này co thắt, làm khô nước bọt, dịch vị, mồ hôi…như ngộ độc Benladon
Còn gọi là mạn đà la, tên khoa học là Datura metel, thuộc họ Cà(Solanaceae).
Trong cây (ở lá và hột có hàm lượng cao nhất) có chứa nhiều ancaloit (hàm lượng toàn phần từ 0,2-0,5%), chủ yếu là scopolamin, còn có hyoscyamin, atropin và các saponin, flavonoit, tanin...
6/Cà gai leo
Có tên khoa học là Solanum hainanense Hance Solanaceae, thuộc họ cà. Họ cà gai rất phong phú, có rất nhiều loài, trong đó có cây chứa độc giống cây cà độc dược nhưng độc tính mạnh hơn.
Nhiều người tử vong vì dùng nhầm cà độc dược. Trẻ em vô tình cũng dễ ăn phải và ngộ độc rất nặng
7/Cây sừng trâu
Sừng trâu Strophanthus caudatus thuộc họ trúc đào Apocynaceae (một loài có độc tính), hoa rất đẹp, quả ngộ nghĩnh như chiếc sừng trâu, nhưng độc tính thuộc loại mạnh. Cả lá, rễ, hạt và nhựa đều độc.
Nhựa cây sừng trâu thường được trộn với nhựa cây thuốc bắn để tẩm vào mũi tên săn thú. Hạt là nguyên liệu chế strophanthin pha thuốc tiêm trị bệnh tim vì trong hạt chứa các glycozit có tác động đối với tim (nhưng dùng quá liều chỉ định sẽ gây ngộ độc). Khi ngộ độc, người bồn chồn vật vã, nôn kéo dài gây hội chứng mất nước và rối loạn điện giải, hoa mắt chóng mặt, nhức đầu, ù tai thở khó, mắt mờ dần và nhịp tim rối loạn, lúc nhanh lúc chậm, triệu chứng rầm rộ. Nếu không cấp cứu kịp thời có thể tử vong
8/Cây Trúc đào (Oleander)
Toàn bộ cây này, bao gồm cả nhựa cây màu trắng sữa là rất độc và bất kỳ bộ phận nào đều có thể gây ra các phản ứng có hại cho sức khỏe. Chỉ cần ăn phải từ 10-20 lá trúc đào thì một người lớn cũng có thể bị nguy hiểm đến tính mạng và chỉ cần 1 chiếc lá cũng có thể gây tử vong ở trẻ em.
Trúc đào là một trong những loài hoa có độc tính cao nhất và chứa nhiều hợp chất có độc, nhiều hợp chất trong số này có thể gây tử vong ở người, đặc biệt là trẻ em.
Loại hoa đỏ và hoa vàng đều độc
9/ Cây hoa Đỗ quyên
Người bị ngộ độc do loại cây này thường có triệu chứng buồn nôn, chảy nước dãi, ói mửa, uể oải, chóng mặt, khó thở, mất cân bằng. Một lượng 100 đến 225 gram lá Đỗ quyên đủ để gây ngộ độc nặng cho trẻ em 25 kg.
Tên khoa học: Rhododendron occidentale
Tất cả các bộ phận của cây đều có chất độc Andromedotoxin và Arbutin glucoside
11.Cây sơn
Chất laccol trong sơn ta gây dị ứng mạnh đối với da. Những người có cơ địa dị ứng chỉ đi ngang qua cây hay ngửi thấy đã bị lở sơn và lở nặng, bỏng rát, khó chịu.
tên khoa học Rhus succedanea được trồng rất phổ biến ở nước ta (vùng Phú Thọ) để lấy nhựa, và cũng mọc tự nhiên trong rừng
12/Bạch hoa xà
có các thành phần flavonoid, phenol, triterpen, các hợp chất plumbagin 0,91%, chitranon, zeylenon, matrinon…; axít hữu cơ: acid palmitic, linoleic… bạch hoa xà cấm dùng cho phụ nữ có thai. Và do vị thuốc này có độc tính mạnh nên chủ yếu chỉ được dùng ngoài
Cây cùng họ với Hoa nhài,
Lá giống lá hoa nhài, bứt lá khỏi thân cây thấy nhiều nhựa. Nhựa này có chất ăn mòn da rất mạnh; đông y chữa được 1 số bệnh, đắp cho vỡ mụn nhọt
13/ Găng tu hú
Cây gỗ nhỏ cao tới 8m, có gai to, nhọn, dài 5-15mm. Lá hình xoan ngược, có lông mềm trên cả hai mặt. Hoa màu vàng lục hay trắng thường đơn, hầu như không cuống. Quả mọng, hình cầu hay hình trứng,
quả chứa saponin trung tính và acid, tinh dầu và acid nhựa. Quả khô chứa một lượng nhỏ saponin kết tinh gọi là ursosaponin. Còn có b-sitosterol và một triterpen mới Lá thường dùng làm thạch (Sương sâm). Rễ nghiền ra dùng duốc cá. Quả dùng nhuộm vàng, Như vậy rễ và quả rất độc
14/ Cây lá Cơi
Có nơi gọi là cây Ngón - Pterocarya tonkinensis Pterocarya tonkinensis (Franch.) họ Hổ đào, Rất phổ biến ở ven các sông, suối nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam từ Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Bắc-Thái, Lạng Sơn, Thanh-Nghệ.
Cây nhỡ leo cao 5-10m; các nhánh có màu nâu và lỗ bì nâu xám. Lá kép lông chim có 3-6 đôi lá chét mọc đối hay gần đối, mép lá có răng cưa, răng có tuyến, mặt dưới lá hơi có lông; các lá chét càng lên càng to dần. Hoa đơn tính họp thành đuôi sóc đơn tính rất dày hoa.
Trong lá, thân và rễ cây chứa tanin và quinon và cả juglon, có nhiều trong lá (0,33%), có ít hơn ở trong rễ (0,17%) và trong thân (0,08%). Lá rất độc với chuột và người nhưng ít độc đối với cá nên ngươi dân dung làm “bả duốc cá”
15/Thàn mát
Cây to cao 10-15m. Cành màu nâu đỏ có chấm trắng. Lá có kích thước lớn, kép lông chim 2 lần, rất nhẵn. Hoa trắng, xếp thành chùm nách nằm ở gốc các nhánh hằng năm. Quả thót lại từ 1/3 trên đến tận gốc, có mũi nhọn dài, mỏng không có cánh và không mép lồi. Hạt đơn độc hình bầu dục, dẹt, màu nâu nhạt đến nâu cánh gián
Một vài nơi ở Hà Nội có trồng để lấy bóng mát có dạo đua nhau tìm chát cây này với tên “Cây xưa”
Hạt thường được dùng để duốc cá: tán nhỏ, trộn với tro bếp, rắc vào dòng nước suối đã ngăn lại, cá sẽ chết và nổi lên.
16/ Ba đậu
(ba nhân, mần để, cây đết)
Cây gỗ nhỏ cao 3-6m, phần cành nhiều. Lá mọc so le, mép khía răng. Lá non màu hồng đỏ. Hoa mọc thành chùm ở đầu cành. Quả nang nhẵn màu vàng nhạt. Hạt có vỏ cứng màu vàng nâu xám.
Hạt chứa khoảng 30-50% dầu mùi khó chịu chứa các glycerid acid, có tính chất tẩy do nhựa hoà tan trong dầu chứa các yếu tố phenolic gây bỏng da. Trong hạt có một glycosid là crotonosid một albuminoza rất độc là croitin,
17/Cây củ đậu
Bộ phận gây độc chính là ở lá và hạt, đều có thành phần chất rotenon và tephrosin. Những chất này rất độc với người, nếu ăn phải toàn thân co giật, đau bụng dữ dội, miệng nôn trôn tháo, đường huyết tụt, loạn nhịp tim, mê man bất tỉnh và tử vong do suy hô hấp.
Tên khoa học pachyrhizus erosus (L) urb, Fabaceae. Cây được trồng khắp mọi nơi,
18/ Cây phụ tử
Loài cây này chứa độc tố aconitine gây nguy hiểm cho những ai ăn phải thậm chí là chạm vào nó. Ai bị ngộ độc thường có triệu trứng tiết nhiều nước bọt, nôn mửa, tiêu chảy, cảm giác ngứa ran trong da, huyết áp và tim bất thường, hôn mê và đôi khi tử vong
Cây phụ tử (Aconitum napellus) còn được gọi là cây Thầy Tu vì đầu của hoa giống như đầu nhà tu hành
Vị thuốc “Phụ tử” nhập từ Trung quốc
19/Ma hoàng (Ephedra)
Các loài thực vật này sống trong các vùng có khí hậu khô trên một khu vực rộng, chủ yếu ở Bắc bán cầu, suốt từ miền nam châu Âu, miền bắc châu Phi, tây nam và miền trung châu Á, tây nam Bắc Mỹ và ở Nam Mỹ
Nước ta chưa thấy cây này. Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc.
Thành phần
Alcaloid (ít nhất 1%), chủ yếu là ephedrin.
Các amin kích thích thần kinh giao cảm như ephedrin làm tăng nhịp tim và huyết áp, vì thế nó có thể là nguy hiểm đối với những người có tiền sử liên quan đến các bệnh tim mạch.
20/Cây hồi núi
Tên khoa học Illicium griffithii Hook.f.et Thoms,Thuộc họ hồi Illiciaceae
Là cây cao 8-15 m. Lá hình bầu dục, không rụng, dai, nhẵn, phiến lá nguyên, dài 6-8cm, rộng 2.5-3cm, thành từng cụm 4-5 lá một giống như mọc thành vòng giả, cuống lá dài 8-10cm. Hồi núi có hoa màu hồng rất đẹp, mọc đơn độc ở kẽ lá. Quả hình na, hoa, đầu có mỏ hẹp, dài, và cong lên như hình lưỡi liềm
Hồi núi có hoa màu hồng rất đẹp. Quả hình na, hoa, đầu có mỏ hẹp, dài, và cong lên như hình lưỡi liềm. Lá và quả có tinh dầu, mùi vừa giống đại hồi, vừa giống tiêu.
Mọc hoang khắp vùng rừng núi ở trong nước. (Rất giống cây đại hồi mà chúng ta thường dùng làm gia vị, nên phải lưu ý để tránh nhầm lẫn, vì cây hồi núi có độc).
21/ Cây hạt Trẩu:
Còn gọi là cây Dầu Sơn, Ngô đồng, Thiên niên đồng, Mộc du thụ. Thuộc họ thầu dầu (Euphorbiaccae)
Là cây to, cao từ 8m trở lên,, thân nhẳng. Cây mọc hoang và cũng được trồng khắp nơi trong nước. Lá đa dạng nhưng có đặc điểm chung: ở gốc phiến lá và kẽ thùy bao giờ cũng có 2 tuyến đỏ nổi rõ.
Hoa màu trắng, đốm tía. Quả hình trứng màu lục, cấu tạo bởi 3 mảnh vỏ.
Lá và hạt đều có saponozit rất độc
22/ Cây Hoàng nàn
Còn gọi là Vỏ Dãn. Thuộc họ Mã Tiền (Loganiaccae)
Là một dây leo mọc hoang ở các vùng rừng núi miền Bắc nước ta. Cành gầy, nhẵn, có những móc mọc đối ở cành non. Thân có vỏ xám với những đám màu vàng đỏ. Lá mọc đối, hơi bầu dục. Quả hình cầu, vỏ ngoài cứng, trong chứa nhiều hạt hình khuy áo, rất giống hạt mã tiền. Vỏ và hạt hoàng nàn rất độc.
23/ Cây Mã tiền
Mọc hoang rất nhiều ở miền Nam nước ta. Là một cây nhỏ, vỏ xám, cây non có gai. Lá mọc đối, phiến lá hình bầu dục. Hoa nhỏ, màu hồng, họp thành xim thành tán. Quả mọng hình cầu, to bằng quả cam, có chứa cơm màu trắng và nhiều hạt hình khuy áo.
Một số mã tiền được khai thác ở miền Bắc nước ta là dây leo, có đường kính thân 10-15 cm, chiều dài có thể 30-40 mét. Mã tiền rất độc khi dùng với liều cao, rất dễ tử vong khi ngộ độc.
Còn gọi là Củ chi. Thuộc họ Mã tiền (Loganiacae)
24/ Cây Sừng dê
Là một cây nhỏ, cao từ 3-5 mét.Cây mọc hoang rất phổ biến ở Việt Nam. Toàn thân và lá khi bẻ có mủ màu trắng sữa. Lá mọc đối, hơi giống hình thìa, tràng hoa hình phễu rộng, xẻ 5 cánh màu vàng, đầu cánh hẹp lại thành hình sợi. Quả khô gồm 2 đại dính vào nhau chứa nhiều hạt có cuống và chùm lông mịn dài.
Toàn thân cây sừng dê đều có chất độc, nhất là hạt. Người ta còn dùng cây sừng dê để chế thuốc tẩm độc tên dùng trong săn bắn.
Còn gọi là Cồng cộng, Sừng Bò... Thuộc họ Trúc Đào (Apocynaccae).
Độc tính tương tự cây “Sừng trâu”, đôi khi gọi lẫn tên 2 cây này
25/Hành biển
Cây có một dò rất lớn, có thể nặng từ 3-8 kg. Vào mùa Xuân có lá hình mác, cuối mùa Hạ, lá khô và xuất hiện cán hoa dài mang nhiều hoa nhỏ màu trắng hay xanh lục.
Hành biển rất độc, người ta dùng nước sắc để diệt chuột và sâu bọ.
Là cây mọc hoang tại những bãi cát quanh vùng biển Địa Trung Hải và những nước ở Bắc Phi...
Việt Nam đã di thực và trồng một số nơi trong nước.
26/ Cây mù mắt
Mọc hoang và được trồng làm cảnh ở miền Bắc nước ta. Lá hình mác nhọn, mép có răng cưa. Hoa mọc ở kẽ lá, 4 lá dài, 5 cánh hoa màu trắng. Quả nang, có hai ô đựng nhiều hạt nhỏ.
Cây có nhựa mủ rất độc, dây vào mắt có thể làm mù mắt, nếu nếm vào có cảm giác nóng bỏng.
Là một cây thuộc loại thân thảo, cao khoảng 0,5 m. Thuộc họ Lộ Biển (Lobeliaceae)
27/ Cây Ô đầu Việt Nam
Còn gọi là Củ Gấu Tàu; Củ Ấu Tàu. Thuộc họ Mao Lương (Ranunculaccae)
Cây mọc hoang ở các vùng núi cao biên giới miền Bắc nước ta.
Phân biệt với Vị thuốc Ô đầu = phụ tử là dược liệu nhập từ Trung quốc
Là một loại cây thân thảo. Cao 0,6-1 mét. Thân mọc thẳng đứng, có lông. Lá hình mắt chim, chia thành ba thùy, có răng cưa ở nữa trên. Hoa lớn màu xanh tím, mọc thành chùm dài 5-15 cm. Quả có 5 đại, mỏng như giấy, hạt có vẩy ở trên mặt.
Người ta thường thái mỏng, ngâm rượu dùng xoa bóp đau nhức, sai khớp, dập gãy chân tay. Người ta còn dùng tẩm độc đầu các mũi tên để săn bắn.
Thay lời kết
Hãy thận trọng khi sử dụng cỏ câu-hoa trái khi chưa biết tác dụng và độc tính của nó !
-----------------------------------------------
ST tổng hợp Phạm Huy Hoạt 4- 2013
CÓ CHẤT ĐỘC
CHẾT NGƯỜI
Giới thiệu
Thiên nhiên ưu ái với con người nhưng cũng cho con người nhiều bài học khi không biết tôn trọng thiên nhiên. Cỏ cây hoa trái cho con người các sản phẩm dùng làm thức ăn, uống, làm thuốc, nhưng cỏ cây hoa trái cũng sẽ trừng phạt ai không hiểu về chúng.
TL này cung cấp thông tin về > 20 cỏ cây-hoa tráí (thương thấy ở VN) có chất độc để các bạn tham khảo, tranh bị ngộ độc.
1/ Cây ngót nghẻo
Độc nhất ở rễ củ. Chất độc đáng lưu ý có trong cây là colchicin, chỉ cần 5mg cho 1kg thể trọng cũng đủ gây chết rất nhanh.
Ngộ độc do ăn phải cây ngót nghẻo gây bệnh cảnh cấp tính sau 2 - 6 giờ, đau rát miệng, khát nước sau đó nôn, buồn nôn dữ dội, đau bụng và tiêu chảy, tiêu máu nặng dẫn tới truỵ tim mạch, rối loạn tri giác, co giật, suy hô hấp, tiểu máu, thiểu niệu. Tiếp đó là xuất huyết, thiếu máu, yếu cơ vào những ngày thứ hai, thứ ba tiếp theo. Nếu qua khỏi thường bị rụng tóc sau 1 - 2 tuần.
Đây là loại cây thân thảo dài 1 - 2m, lá hình mũi mác, đầu tận cùng bằng một tua cuộn hình xoắn ốc quấn bám cho thân leo.
Trái dạng nang hình chuỳ dài, chứa nhiều hạt, khi chín có màu đỏ tươi. Mùa hoa vào tháng 5 - 6, mùa quả từ tháng 6 - 8.
2/Cây lá ngón
Chỉ cần một chiếc lá mỏng manh hay chùm hoa đẹp đẽ kia xâm nhập vào cơ thể các loài máu nóng, lập tức độc tính ancaloit sẽ gây ra triệu chứng khát nước, đau họng, chóng mặt, hoa mắt, buồn nôn… sau đó là mỏi cơ, giảm thân nhiệt, hạ huyết áp, răng cắn chặt, sùi bọt mép, đau bụng dữ dội, tim đập yếu, khó thở, đồng tử giãn và chết rất nhanh do ngừng hô hấp.
Mức độ độc của cây giảm theo thứ tự: rễ, lá, hoa, quả, thân cây. Các nhà khoa học đã tìm thấy 17 đơn phân ancaloit gây độc được chiết ra từ lá ngón.
Khi những cơn mưa đầu mùa đổ xuống các cánh rừng ở độ cao 200 - 2.000m, cũng là lúc loài lá ngón Gelsemium elegans khoe sắc từng chùm hoa vàng rực rỡ. Cây và lá ngón rất dễ nhầm với cây rau sắng
3/Cây sui
Từ xa xưa, các thợ săn dân tộc ít người ở miền núi đã biết dùng nhựa của loài cây này tẩm vào mũi tên săn thú rừng, chỉ cần một phát trúng đích thì ngay cả một con bò rừng cũng không có cơ hội sống sót
Có tên KH là Antiaris toxicaria, còn được gọi là cây thuốc bắn. Vỏ cây được một số vùng phía Bắc nước ta lấy sợi dùng làm chăn, nhưng lại có độc tố khủng khiếp.
4/ Cây
bồng bồng
Nhựa của nó với liều thấp sẽ gây nôn, liều cao gây độc mạnh như nhức đầu, chóng mặt, sốt, nổi ban khắp người, yếu sức sẽ bị ép tim, ngủ lịm, khó thở và ngừng thở nếu không được cấp cưu giải độc.
Bồng bồng có tên khoa học Calotropis gigantea, có hoa to, đẹp và mọc rất nhiều ven đường các tỉnh miền Trung.
5/Cà độc dược
Tác dụng dược lý chủ yếu là do các ancaloit: làm giãn phế quản, giãn đồng tử, giảm nhu động ruột và bao tử nếu những cơ quan này co thắt, làm khô nước bọt, dịch vị, mồ hôi…như ngộ độc Benladon
Còn gọi là mạn đà la, tên khoa học là Datura metel, thuộc họ Cà(Solanaceae).
Trong cây (ở lá và hột có hàm lượng cao nhất) có chứa nhiều ancaloit (hàm lượng toàn phần từ 0,2-0,5%), chủ yếu là scopolamin, còn có hyoscyamin, atropin và các saponin, flavonoit, tanin...
6/Cà gai leo
Có tên khoa học là Solanum hainanense Hance Solanaceae, thuộc họ cà. Họ cà gai rất phong phú, có rất nhiều loài, trong đó có cây chứa độc giống cây cà độc dược nhưng độc tính mạnh hơn.
Nhiều người tử vong vì dùng nhầm cà độc dược. Trẻ em vô tình cũng dễ ăn phải và ngộ độc rất nặng
7/Cây sừng trâu
Sừng trâu Strophanthus caudatus thuộc họ trúc đào Apocynaceae (một loài có độc tính), hoa rất đẹp, quả ngộ nghĩnh như chiếc sừng trâu, nhưng độc tính thuộc loại mạnh. Cả lá, rễ, hạt và nhựa đều độc.
Nhựa cây sừng trâu thường được trộn với nhựa cây thuốc bắn để tẩm vào mũi tên săn thú. Hạt là nguyên liệu chế strophanthin pha thuốc tiêm trị bệnh tim vì trong hạt chứa các glycozit có tác động đối với tim (nhưng dùng quá liều chỉ định sẽ gây ngộ độc). Khi ngộ độc, người bồn chồn vật vã, nôn kéo dài gây hội chứng mất nước và rối loạn điện giải, hoa mắt chóng mặt, nhức đầu, ù tai thở khó, mắt mờ dần và nhịp tim rối loạn, lúc nhanh lúc chậm, triệu chứng rầm rộ. Nếu không cấp cứu kịp thời có thể tử vong
8/Cây Trúc đào (Oleander)
Toàn bộ cây này, bao gồm cả nhựa cây màu trắng sữa là rất độc và bất kỳ bộ phận nào đều có thể gây ra các phản ứng có hại cho sức khỏe. Chỉ cần ăn phải từ 10-20 lá trúc đào thì một người lớn cũng có thể bị nguy hiểm đến tính mạng và chỉ cần 1 chiếc lá cũng có thể gây tử vong ở trẻ em.
Trúc đào là một trong những loài hoa có độc tính cao nhất và chứa nhiều hợp chất có độc, nhiều hợp chất trong số này có thể gây tử vong ở người, đặc biệt là trẻ em.
Loại hoa đỏ và hoa vàng đều độc
9/ Cây hoa Đỗ quyên
Người bị ngộ độc do loại cây này thường có triệu chứng buồn nôn, chảy nước dãi, ói mửa, uể oải, chóng mặt, khó thở, mất cân bằng. Một lượng 100 đến 225 gram lá Đỗ quyên đủ để gây ngộ độc nặng cho trẻ em 25 kg.
Tên khoa học: Rhododendron occidentale
Tất cả các bộ phận của cây đều có chất độc Andromedotoxin và Arbutin glucoside
11.Cây sơn
Chất laccol trong sơn ta gây dị ứng mạnh đối với da. Những người có cơ địa dị ứng chỉ đi ngang qua cây hay ngửi thấy đã bị lở sơn và lở nặng, bỏng rát, khó chịu.
tên khoa học Rhus succedanea được trồng rất phổ biến ở nước ta (vùng Phú Thọ) để lấy nhựa, và cũng mọc tự nhiên trong rừng
12/Bạch hoa xà
có các thành phần flavonoid, phenol, triterpen, các hợp chất plumbagin 0,91%, chitranon, zeylenon, matrinon…; axít hữu cơ: acid palmitic, linoleic… bạch hoa xà cấm dùng cho phụ nữ có thai. Và do vị thuốc này có độc tính mạnh nên chủ yếu chỉ được dùng ngoài
Cây cùng họ với Hoa nhài,
Lá giống lá hoa nhài, bứt lá khỏi thân cây thấy nhiều nhựa. Nhựa này có chất ăn mòn da rất mạnh; đông y chữa được 1 số bệnh, đắp cho vỡ mụn nhọt
13/ Găng tu hú
Cây gỗ nhỏ cao tới 8m, có gai to, nhọn, dài 5-15mm. Lá hình xoan ngược, có lông mềm trên cả hai mặt. Hoa màu vàng lục hay trắng thường đơn, hầu như không cuống. Quả mọng, hình cầu hay hình trứng,
quả chứa saponin trung tính và acid, tinh dầu và acid nhựa. Quả khô chứa một lượng nhỏ saponin kết tinh gọi là ursosaponin. Còn có b-sitosterol và một triterpen mới Lá thường dùng làm thạch (Sương sâm). Rễ nghiền ra dùng duốc cá. Quả dùng nhuộm vàng, Như vậy rễ và quả rất độc
14/ Cây lá Cơi
Có nơi gọi là cây Ngón - Pterocarya tonkinensis Pterocarya tonkinensis (Franch.) họ Hổ đào, Rất phổ biến ở ven các sông, suối nhiều nơi ở miền Bắc Việt Nam từ Lào Cai, Yên Bái, Hoà Bình, Bắc-Thái, Lạng Sơn, Thanh-Nghệ.
Cây nhỡ leo cao 5-10m; các nhánh có màu nâu và lỗ bì nâu xám. Lá kép lông chim có 3-6 đôi lá chét mọc đối hay gần đối, mép lá có răng cưa, răng có tuyến, mặt dưới lá hơi có lông; các lá chét càng lên càng to dần. Hoa đơn tính họp thành đuôi sóc đơn tính rất dày hoa.
Trong lá, thân và rễ cây chứa tanin và quinon và cả juglon, có nhiều trong lá (0,33%), có ít hơn ở trong rễ (0,17%) và trong thân (0,08%). Lá rất độc với chuột và người nhưng ít độc đối với cá nên ngươi dân dung làm “bả duốc cá”
15/Thàn mát
Cây to cao 10-15m. Cành màu nâu đỏ có chấm trắng. Lá có kích thước lớn, kép lông chim 2 lần, rất nhẵn. Hoa trắng, xếp thành chùm nách nằm ở gốc các nhánh hằng năm. Quả thót lại từ 1/3 trên đến tận gốc, có mũi nhọn dài, mỏng không có cánh và không mép lồi. Hạt đơn độc hình bầu dục, dẹt, màu nâu nhạt đến nâu cánh gián
Một vài nơi ở Hà Nội có trồng để lấy bóng mát có dạo đua nhau tìm chát cây này với tên “Cây xưa”
Hạt thường được dùng để duốc cá: tán nhỏ, trộn với tro bếp, rắc vào dòng nước suối đã ngăn lại, cá sẽ chết và nổi lên.
16/ Ba đậu
(ba nhân, mần để, cây đết)
Cây gỗ nhỏ cao 3-6m, phần cành nhiều. Lá mọc so le, mép khía răng. Lá non màu hồng đỏ. Hoa mọc thành chùm ở đầu cành. Quả nang nhẵn màu vàng nhạt. Hạt có vỏ cứng màu vàng nâu xám.
Hạt chứa khoảng 30-50% dầu mùi khó chịu chứa các glycerid acid, có tính chất tẩy do nhựa hoà tan trong dầu chứa các yếu tố phenolic gây bỏng da. Trong hạt có một glycosid là crotonosid một albuminoza rất độc là croitin,
17/Cây củ đậu
Bộ phận gây độc chính là ở lá và hạt, đều có thành phần chất rotenon và tephrosin. Những chất này rất độc với người, nếu ăn phải toàn thân co giật, đau bụng dữ dội, miệng nôn trôn tháo, đường huyết tụt, loạn nhịp tim, mê man bất tỉnh và tử vong do suy hô hấp.
Tên khoa học pachyrhizus erosus (L) urb, Fabaceae. Cây được trồng khắp mọi nơi,
18/ Cây phụ tử
Loài cây này chứa độc tố aconitine gây nguy hiểm cho những ai ăn phải thậm chí là chạm vào nó. Ai bị ngộ độc thường có triệu trứng tiết nhiều nước bọt, nôn mửa, tiêu chảy, cảm giác ngứa ran trong da, huyết áp và tim bất thường, hôn mê và đôi khi tử vong
Cây phụ tử (Aconitum napellus) còn được gọi là cây Thầy Tu vì đầu của hoa giống như đầu nhà tu hành
Vị thuốc “Phụ tử” nhập từ Trung quốc
19/Ma hoàng (Ephedra)
Các loài thực vật này sống trong các vùng có khí hậu khô trên một khu vực rộng, chủ yếu ở Bắc bán cầu, suốt từ miền nam châu Âu, miền bắc châu Phi, tây nam và miền trung châu Á, tây nam Bắc Mỹ và ở Nam Mỹ
Nước ta chưa thấy cây này. Vị thuốc phải nhập từ Trung Quốc.
Thành phần
Alcaloid (ít nhất 1%), chủ yếu là ephedrin.
Các amin kích thích thần kinh giao cảm như ephedrin làm tăng nhịp tim và huyết áp, vì thế nó có thể là nguy hiểm đối với những người có tiền sử liên quan đến các bệnh tim mạch.
20/Cây hồi núi
Tên khoa học Illicium griffithii Hook.f.et Thoms,Thuộc họ hồi Illiciaceae
Là cây cao 8-15 m. Lá hình bầu dục, không rụng, dai, nhẵn, phiến lá nguyên, dài 6-8cm, rộng 2.5-3cm, thành từng cụm 4-5 lá một giống như mọc thành vòng giả, cuống lá dài 8-10cm. Hồi núi có hoa màu hồng rất đẹp, mọc đơn độc ở kẽ lá. Quả hình na, hoa, đầu có mỏ hẹp, dài, và cong lên như hình lưỡi liềm
Hồi núi có hoa màu hồng rất đẹp. Quả hình na, hoa, đầu có mỏ hẹp, dài, và cong lên như hình lưỡi liềm. Lá và quả có tinh dầu, mùi vừa giống đại hồi, vừa giống tiêu.
Mọc hoang khắp vùng rừng núi ở trong nước. (Rất giống cây đại hồi mà chúng ta thường dùng làm gia vị, nên phải lưu ý để tránh nhầm lẫn, vì cây hồi núi có độc).
21/ Cây hạt Trẩu:
Còn gọi là cây Dầu Sơn, Ngô đồng, Thiên niên đồng, Mộc du thụ. Thuộc họ thầu dầu (Euphorbiaccae)
Là cây to, cao từ 8m trở lên,, thân nhẳng. Cây mọc hoang và cũng được trồng khắp nơi trong nước. Lá đa dạng nhưng có đặc điểm chung: ở gốc phiến lá và kẽ thùy bao giờ cũng có 2 tuyến đỏ nổi rõ.
Hoa màu trắng, đốm tía. Quả hình trứng màu lục, cấu tạo bởi 3 mảnh vỏ.
Lá và hạt đều có saponozit rất độc
22/ Cây Hoàng nàn
Còn gọi là Vỏ Dãn. Thuộc họ Mã Tiền (Loganiaccae)
Là một dây leo mọc hoang ở các vùng rừng núi miền Bắc nước ta. Cành gầy, nhẵn, có những móc mọc đối ở cành non. Thân có vỏ xám với những đám màu vàng đỏ. Lá mọc đối, hơi bầu dục. Quả hình cầu, vỏ ngoài cứng, trong chứa nhiều hạt hình khuy áo, rất giống hạt mã tiền. Vỏ và hạt hoàng nàn rất độc.
23/ Cây Mã tiền
Mọc hoang rất nhiều ở miền Nam nước ta. Là một cây nhỏ, vỏ xám, cây non có gai. Lá mọc đối, phiến lá hình bầu dục. Hoa nhỏ, màu hồng, họp thành xim thành tán. Quả mọng hình cầu, to bằng quả cam, có chứa cơm màu trắng và nhiều hạt hình khuy áo.
Một số mã tiền được khai thác ở miền Bắc nước ta là dây leo, có đường kính thân 10-15 cm, chiều dài có thể 30-40 mét. Mã tiền rất độc khi dùng với liều cao, rất dễ tử vong khi ngộ độc.
Còn gọi là Củ chi. Thuộc họ Mã tiền (Loganiacae)
24/ Cây Sừng dê
Là một cây nhỏ, cao từ 3-5 mét.Cây mọc hoang rất phổ biến ở Việt Nam. Toàn thân và lá khi bẻ có mủ màu trắng sữa. Lá mọc đối, hơi giống hình thìa, tràng hoa hình phễu rộng, xẻ 5 cánh màu vàng, đầu cánh hẹp lại thành hình sợi. Quả khô gồm 2 đại dính vào nhau chứa nhiều hạt có cuống và chùm lông mịn dài.
Toàn thân cây sừng dê đều có chất độc, nhất là hạt. Người ta còn dùng cây sừng dê để chế thuốc tẩm độc tên dùng trong săn bắn.
Còn gọi là Cồng cộng, Sừng Bò... Thuộc họ Trúc Đào (Apocynaccae).
Độc tính tương tự cây “Sừng trâu”, đôi khi gọi lẫn tên 2 cây này
25/Hành biển
Cây có một dò rất lớn, có thể nặng từ 3-8 kg. Vào mùa Xuân có lá hình mác, cuối mùa Hạ, lá khô và xuất hiện cán hoa dài mang nhiều hoa nhỏ màu trắng hay xanh lục.
Hành biển rất độc, người ta dùng nước sắc để diệt chuột và sâu bọ.
Là cây mọc hoang tại những bãi cát quanh vùng biển Địa Trung Hải và những nước ở Bắc Phi...
Việt Nam đã di thực và trồng một số nơi trong nước.
26/ Cây mù mắt
Mọc hoang và được trồng làm cảnh ở miền Bắc nước ta. Lá hình mác nhọn, mép có răng cưa. Hoa mọc ở kẽ lá, 4 lá dài, 5 cánh hoa màu trắng. Quả nang, có hai ô đựng nhiều hạt nhỏ.
Cây có nhựa mủ rất độc, dây vào mắt có thể làm mù mắt, nếu nếm vào có cảm giác nóng bỏng.
Là một cây thuộc loại thân thảo, cao khoảng 0,5 m. Thuộc họ Lộ Biển (Lobeliaceae)
27/ Cây Ô đầu Việt Nam
Còn gọi là Củ Gấu Tàu; Củ Ấu Tàu. Thuộc họ Mao Lương (Ranunculaccae)
Cây mọc hoang ở các vùng núi cao biên giới miền Bắc nước ta.
Phân biệt với Vị thuốc Ô đầu = phụ tử là dược liệu nhập từ Trung quốc
Là một loại cây thân thảo. Cao 0,6-1 mét. Thân mọc thẳng đứng, có lông. Lá hình mắt chim, chia thành ba thùy, có răng cưa ở nữa trên. Hoa lớn màu xanh tím, mọc thành chùm dài 5-15 cm. Quả có 5 đại, mỏng như giấy, hạt có vẩy ở trên mặt.
Người ta thường thái mỏng, ngâm rượu dùng xoa bóp đau nhức, sai khớp, dập gãy chân tay. Người ta còn dùng tẩm độc đầu các mũi tên để săn bắn.
Thay lời kết
Hãy thận trọng khi sử dụng cỏ câu-hoa trái khi chưa biết tác dụng và độc tính của nó !
-----------------------------------------------
ST tổng hợp Phạm Huy Hoạt 4- 2013
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...
Người chia sẻ: Phạm Huy Hoạt
Dung lượng: |
Lượt tài: 0
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)