158 slide TIEU SU CAC NHAN VAT NOI TIENG

Chia sẻ bởi Võ Thị Hoa Phượng | Ngày 27/04/2019 | 65

Chia sẻ tài liệu: 158 slide TIEU SU CAC NHAN VAT NOI TIENG thuộc Bài giảng khác

Nội dung tài liệu:

Thiếu niên
Lý Tiểu Long sinh tại bệnh viện Jackson và lớn lên ở một khu phố người Hoa thuộc San Francisco, California; cha là Lý Hải Tuyền và mẹ là Hà Ái Du là diễn viên trong đoàn kịch lưu diễn tại Mỹ. Khi mới sinh Lý Tiểu Long hay ốm yếu bệnh tật.
Năm 1941 (1 tuổi) Lý Tiểu Long cùng bố mẹ trở về cố hương của họ tại Hồng Kông và sống trong một căn hộ tại đường 218 Nathan. Tới năm 1946 Lý Tiểu Long đóng vai đầu tiên trong phim The Beginning of a Boy và sau đó, anh tham gia trong các phim The Birth of Mankind, My Son và Ah Cheun v.v. (khoảng 20 phim). Từ các vai trẻ em này, tài năng diễn xuất của anh dần được bộc lộ.
Năm 1952 (12 tuổi) Lý Tiểu Long bắt đầu theo học tại trường trung học La Salle. Một năm sau, (1953) Lý hay giao du với bọn trẻ lêu lổng, thường gây lộn đánh nhau trên đường phố. Sau một lần bị đánh bại anh theo học Vịnh Xuân quyền cùng danh sư Diệp Vấn. Diệp Vấn về sau là chưởng môn hệ phái Vịnh Xuân quyền Hồng Kông.
Năm 1954 (14 tuổi) Lý Tiểu Long theo học khiêu vũ. Với vũ điệu cha-cha-cha, anh giành giải quán quân trong một cuộc thi khiêu vũ vào năm 1958 (18 tuổi). Cũng trong những năm này Lý Tiểu Long có một vai diễn trong The Orphan. Đây là vai trẻ em cuối cùng cũng là phim duy nhất không có cảnh đánh đấm. Cùng năm đó anh tham gia giải quyền Anh và đánh bại nguời vô địch 3 năm liền là Gary Elms.
Ly Tieu Long
Thành danh trong võ nghiệp
[sửa] Những lớp võ đầu tiên
Vào năm 19 tuổi (1959), do có những trận đụng độ trên đường phố mà Lý Tiểu Long bị cảnh sát Hồng Kông điều tra. Lo lắng cho con bố mẹ anh đã quyết định sẽ đưa anh sang Mỹ, quay lại với San Francisco. Với 15$ của bố và 100$ của mẹ Lý Tiểu Long đã đến Mỹ và sống với một người bạn cũ của bố. Anh làm việc xung quanh cộng đồng người Hoa và về sau lại chuyển tới Seattle, Washington để làm việc cho Ruby Chow, một người bạn khác của cha. Anh sống trong một căn phòng phía trên của một nhà hàng với vai trò bồi bàn. Cuối cùng Lý gia nhập trường Edison Technica. Thời gian này anh bắt đầu dạy võ trong sân sau và công viên của thành phố.
Tháng 3 năm 1961, khi 21 tuổi Lý Tiểu Long vào học khoa Triết học của Đại học Washington, cũng tại đây họ Lý đã mở lớp dạy Kungfu cho sinh viên của trường.
Mùa hè năm 1963, Lý Tiểu Long cầu hôn với Amy Sanbo nhưng bị cô từ chối. Lý trở lại Hồng Kông với bạn là Doug Palmer. Đây là lần đầu Lý về thăm gia đình kể từ khi sang Mỹ. Trong lần trở lại Hồng Kông họ Lý có quay lại với Diệp Vấn xin theo học nốt phần cuối bài Mộc nhân thung[1] mà Lý chưa học hết, nhưng bị Diệp Vấn từ chối. Lý Tiểu Long đã theo học với Thiệu Hán Sinh (sinh năm 1900) một số bài như Tinh võ hội tiết quyền, Thất tinh Đường lang băng bộ quyền v.v. Sau đó anh phải quay lại Seattle để tiếp tục việc học tập của mình, đồng thời bắt đầu nghiên cứu tìm cách dung hợp kỹ thuật của các võ phái để phát triển một đường hướng riêng.
Ngày 25 tháng 10 năm 1963 (23 tuổi), Lý Tiểu Long có buổi hẹn hò đầu tiên với Linda Emery (sau trở thành người vợ tương lai của anh). Họ đã có buổi ăn tối tại Space Needle. Thời gian này Lý Tiểu Long bắt đầu mở Trấn Phan Võ Quán. Anh rời "Trấn Phan Võ Quán" tới đường 4750 University gần khu sân bãi của trường đại học và tại đây, anh dạy một vài đệ tử trong số đó có cả người Mỹ. Tại trường Trung học Garfield họ Lý đã biểu diễn đòn đấm một inch, một kỹ thuật đặc thù của nguyên lý "đoản kiều phát lực" trong võ phái Vịnh Xuân quyền. Cú đấm này về sau đã làm lên sự nổi tiếng của anh tại 64` Long Beach Internationals.
Năm 1964 (24 tuổi) Lý Tiểu Long gặp Jhoon Rhee tại cuộc thi karate quốc tế. Cả hai đều đạt kết quả tốt, Về sau Jhoon Rhee đã mời Lý Tiểu Long đến Washington, D.C. tham dự một giải đấu. Anh bàn với James Yimm Lee kế hoạch mở "Trấn Phan Võ Quán" thứ hai tại Oakland, California. Kế hoạch được thực hiện, và Lý Tiểu Long dời Seattle để bắt đầu võ quán thứ hai ở Oakland. Một người bạn tốt của Lý, Taky Kimura (Mộc Thôn, người Nhật), đảm đương vai trò người đứng đầu.
Ngày 2 tháng 8 năm 1964, Ed Parker, được biết đến như cha đẻ của karate Mỹ (Kempo), mời Lý Tiểu Long biểu diễn. Lý Tiểu Long đã biểu diễn đòn đánh 1 inch và hít đất với 2 ngón tay. Tại giải Karate quốc tế lần đầu có sự hiện diện Jay Sebring và William Dozier, một nhà sản xuất, người đang tìm kiếm một diễn viên cho một serie truyền hình mà ông đang làm. Sebring đưa bộ phim Cuộc biểu tình của Lý Tiểu Long cho Dozier, người rất ấn tượng với khả năng siêu phàm của Lý Tiểu Long. Sau đó Lý Tiểu Long bay tới Los Angeles, California để diễn thử.
Ngày 4 tháng 8 năm 1964, khi 24 tuổi, Lý Tiểu Long trở lại Seattle để cầu hôn Linda, và tới ngày 17 tháng 8 cùng năm thì anh cưới Linda. Ngay sau đó đôi vợ chồng trẻ chuyển đến Oakland.
Nghiên cứu và sáng tạo Tiệt quyền đạo
Năm 1965, chỉ vài tháng sau khi cưới Lý Tiểu Long nhận được lời thách đấu của Hoàng Trạch Dân (Wong Jack Man), một thầy dạy Kungfu tại khu phố Tàu. Họ thỏa thuận nếu Lý Tiểu Long thua anh sẽ phải hoặc là đóng cửa võ quán của mình hoặc ngưng dạy những người da trắng, còn nếu Jack thua anh ta sẽ phải ngừng dạy võ. Hoàng Trạch Dân không tin là Lý sẽ dám nhận lời thách đấu, và cố trì hoãn trận đấu. Lý Tiểu Long đã nhận lời và yêu cầu họ không phải đợi. Hoàng Trạch Dân sau đó cố giới hạn kỹ thuật. Lý Tiểu Long khước từ những quy định đó và họ đã không đi đến thỏa thuận. Lý Tiểu Long đánh bại kẻ thù chỉ trong giây lát và giành phần thắng. Hoàng Trạch Dân bỏ chạy nhưng Lý Tiểu Long tóm lại và đánh gục hắn ngay trên võ đài. Đệ tử của Hoàng Trạch Dân định can thiệp song James Jimmy Lee, một người bạn tốt của Lý đã ngăn lại. Sau đó Lý Tiểu Long nhận ra tại sao trận đấu lại diễn ra lâu như vậy. Lý bắt đầu suy nghĩ về bản thân. Đó chính là cơ sở sau này cho môn võ Tiệt quyền đạo (Jeet Kune Do), "Nghệ thuật chiến đấu bằng cách chặn đứng đòn tấn công của đối phương" đã được ra đời. Tiệt Quyền Đạo là một môn võ bao gồm đòn thế của nhiều môn phái như quyền Anh phương Tây, quyền Thái, Karate Nhật Bản, Taekwondo Hàn Quốc, võ Trung Hoa - Hồng Gia Quyền, Vịnh Xuân Quyền trong đó đặc biệt nhấn mạnh các kỹ thuật của Vịnh Xuân Quyền (như bài Mộc nhân thung cải cách) được họ Lý gọi chung là Kungfu.
Sự nghiệp điện ảnh


Tượng Lý Tiểu Long ở Hồng Kông
[sửa] Diễn viên phim The Green Hornet
Năm 1966, Lý Tiểu Long bắt đầu để lại dấu ấn trong trong bộ phim truyền hình Mỹ có tên gọi The Green Hornet và được trả một khoản thù lao 1800$.
Ngày 1 tháng 1 năm 1965, Lý Quốc Hào (Brandon Lee) con trai duy nhất của anh chào đời. Sau đó khoảng 1 tháng, ngày 8 tháng 2 năm 1965, cha Lý Tiểu Long qua đời tại Hồng Kông và Lý Tiểu Long đã trở về Hồng Kông dự đám tang cha (nhưng không kịp). Theo phong tục cổ, người con coi là bất hiếu nếu vắng mặt khi cha mất, vì vậy Lý Tiểu Long đã quỳ gối suốt từ cửa tới bình đựng tro hỏa tán của cha mà khóc. Tháng 5 năm 1965 Lý Tiểu Long sử dụng số tiền còn lại từ bộ phim The Green Hornet để bay trở lại đưa Linda và Quốc Hào quay lại Hồng Kông để giải quyết gia sản của người cha để lại. Trong khi ở Hồng Kông anh đưa Quốc Hào đến gặp danh sư Diệp Vấn. Đến tháng 9 năm 1965 anh cùng vợ và con quay trở lại Seattle.
Năm 1966, Lý Tiểu Long cùng gia đình dời đến Los Angeles sống trong một căn hộ tại Wilshire, Westwood. Đây là nơi anh làm việc cho tập phim truyền hình gọi là The Green Hornet trong vai Kato. Bộ phim The Green Hornet bắt đầu được quay và Lý Tiểu Long được trả $400 cho mỗi phần. Sau đó Lý Tiểu Long mở thêm một chi nhánh thứ ba của "Trấn Phan Võ Quán" tại khu phố Tàu của thành phố Los Angeles. Đến tháng 9 cùng năm, bộ phim The Green Hornet trở nên rất ăn khách.
Trong suốt giai đoạn tiếp theo, từ 1967 đến 1971 Lý Tiểu Long tham gia vào nhiều phim khác nhau trong đó có các bộ phim truyền hình. Ngoài ra anh còn dạy võ với mức lương tới 250$ mỗi giờ cho những người nổi tiếng như Steve McQueen, James Coburn, James Garner, Lee Marvin, Roman Polanski và Kareem Abdul Jabbar. Lý Tiểu Long gặp Chuck Norris tại New York khi cùng tham gia giải Karate toàn quốc ở Washington D.C., Chuck đấu với Joe Lewis và giành phần thắng. Đầu năm 1967 Lý Tiểu Long gặp Joe Lewis tại khách sạn Mayflower, cả hai đều là khách mời của giải Karate quốc tế năm 1967. Joe đang cố giành phần thắng trong giải đấu còn Lý đang có sự xuất hiện đặc biệt với vai Kato. Tháng 2 cùng năm Lý mở võ quán thứ ba của mình tại đường 628 College, Los Angeles. Dan Inosanto trợ giúp như một phụ tá hướng dẫn. Đến ngày 14 tháng 7 phần cuối của phim The Green Hornet được trình chiếu. Bộ phim sau đó được nói rằng phải bỏ dở vì Lý, nhân vật phụ, trở lên nổi tiếng còn hơn cả nhân vật chính của phim.
Ngày 19 tháng 4 năm 1969 con gái Lý Phiên Ngưng (Shannon Lee) cất tiếng khóc chào đời.
Năm 1970, khi 30 tuổi, Lý Tiểu Long bị thương nặng ở lưng và trong khi tập luyện. Bác sĩ nói rằng anh không thể luyện võ tiếp tục được. Trong suốt những tháng ngày phục hồi sức khỏe Lý bắt đầu viết về phương pháp luyện tập của mình chứng nghiệm từ chính bản thân cho môn võ Tiệt quyền đạo. Sau khi anh mất, Con đường Tiệt Quyền Đạo[2] được xuất bản bởi vợ anh trong những kí ức về Lý Tiểu Long. Cũng trong năm này, Lý Tiểu Long và Quốc Hào bay về Hồng Kông trong sự chào đón của khán giả hâm mộ bộ phim The Green Hornet.
Bắt đầu đạo diễn kịch bản
Tháng 2 năm 1971 Lý cùng James Coburn, Stirling Silliphant bay sang Ấn Độ để khảo sát những cảnh quay cho The Silent Flute. Họ mất một tháng trời tìm kiếm song miễn cưỡng để từ bỏ do Coburn bỏ dở kế hoạch. Chuyến du ngoạn này đã giúp cho Lý Tiểu Long có ý tưởng cho bộ phim Trò chơi tử vong (Game of Death).
Năm 1971 khi 31 tuổi Lý Tiểu Long kết thúc chuyến du ngoạn ngắn ngủi quay trở lại Hồng Kông để thu xếp cho mẹ tới Mỹ. Trong thời điểm này anh đang là một siêu sao của phim The Green Hornet đã trở thành phim truyền hình ăn khách nhất ở Hồng Kông. Sau đó anh nhận được lời mời của Raymond Chow, một nhà sản xuất phim mới, tham gia trong bộ phim Đường Sơn đại huynh (The Big Boss) và họ Lý đã nhận lời. Lý Tiểu Long được cấp một cấp một căn hộ với đồ đạc có sẵn ở đường số 2 Man Wan - Kowloon, Hồng Kông. Nguyên Hoa, trợ lý của Lý Tiểu Long suốt 3 năm liền, người sau này cũng trở thành một diễn viên nổi tiếng từng tham gia trong các phim Tinh Võ Môn, Long tranh hổ đấu và Tuyệt đỉnh Kungfu đóng cùng Châu Tinh Trì) đã đi cùng Lý và Linda. Sau đó Nguyên Hoa kết hôn và vợ mới của anh cũng đi cùng. Cùng lúc này Lý Quốc Hào nhập học tại trường trung học La Salle, ngôi trường mà phụ thân của anh theo học 15 năm trước.
Cũng trong năm 1971 Lý được mời phỏng vấn trong chương trình "Canadian Talk" hướng dẫn bởi Pierre Berton, lúc đó đang làm phim tại Hồng Kông. Chương trình này chỉ làm phim về sự thực và ít đề cao các kỹ xảo điện ảnh trong phim võ thuật.









Tháng 7 năm 1971 đoàn làm phim bắt đầu quay Đường Sơn Đại Huynh (phát hành tại Mỹ dưới tên The Big Boss). Đường Sơn Đại Huynh mở ra một làn sóng hâm mộ ở Hồng Kông và lượng khán giả khổng lồ. Doanh thu của bộ phim đạt hơn 3,5 triệu đô la chỉ trong khoảng 3 tuần. Năm 1972 Tinh Võ Môn (phát hành tại Mỹ với tên The Chinese Connection) được công chiếu. Nó đạt doanh thu còn hơn cả Đường Sơn Đại Huynh và sau này đã đưa tên tuổi của Lý Tiểu Long liệt vào hàng siêu sao Hồng Kông. Lý thu về được một khoản lợi nhuận đủ để trang trải một vài thứ, và anh cũng có tham gia đạo diễn cho phim này.
Lý Tiểu Long bắt đầu đóng phim Trò Chơi Tử Vong và một vài cảnh trong phim có xuất hiện Danny Inosanto và Kareem Abdul-Jabbar.
Lý xuất hiện trên kênh TVB của Hồng Kông trong một cuộc vận động ủng hộ những người gặp thiên tai. Cuộc biểu diễn quyên góp được sự hoan nghênh nhiệt liệt của khán giả.
Năm 1972 Lý Tiểu Long đưa đoàn làm phim sang Roma (Ý) làm bộ phim thứ ba là Mãnh Long Quá Giang (The Way Of The Dragon, phát hành tại Mỹ dưới tên The Return Of The Dragon). Lần này Lý Tiểu Long đảm nhận hầu hết các vai trò từ viết kịch bản, đạo diễn, rồi kiêm diễn viên. Chuck Norris là cảnh giao đấu cuối cùng của Lý Tiểu Long. Một lần nữa, bộ phim này vượt trội hơn nhiều so với hai phim trước. Ngày 28 tháng 12 năm 1972 người em của Lý Tiểu Long, James, qua đời vì bị lao phổi.
Tháng 2 năm 1973 Lý Tiểu Long có cơ hội khi phim Long Tranh Hổ Đấu (Enter The Dragon) được khởi quay trong khi Trò Chơi Tử Vong được bắt tay vào. Đây chính là bộ phim đầu tiên do Mỹ và Hồng Kông hợp tác sản xuất. Bộ phim Long Tranh Hổ Đấu hoàn thành vào tháng 4 năm 1973, khi Lý Tiểu Long 33 tuổi.
Cái chết
[sửa] Những ngày trước khi từ giã cõi đời
Vào ngày 20 tháng 2 năm 1973, Lý Tiểu Long tham dự ngày lễ thể thao tại trường St. Francis Xavier. Cũng đầu năm này, Grace Lee, mẹ Lý Tiểu Long, gặp Lý tại Los Angeles. Lý thổ lộ với bà rằng anh không muốn sống thêm nữa và bà không phải lo về tài chính, tuy nhiên bà nghĩ con trai bà nói vớ vẩn.
Ngày 16 tháng 7 năm 1973 mưa to do cơn bão lớn tại Hồng Kông. Lý Tiểu Long tiêu phí 200$ để điện thoại cho Unicorn, người đã làm bộ phim ở Manila, trong phòng của anh tại khách sạn. Lý Tiểu Long nói với Unicorn anh thực sự thấy lo lắng về những cơn đau đầu mà mình đang phải chịu đựng. Ngày 18 tháng 7 cùng năm mái nhà của Lý Tiểu Long tại đường Cumberland ở Hong Kong bị thổi tung vì mưa to gió lớn. Tới ngày 20 tháng 7, Lý Tiểu Long viết một bức thư cho vị luật sư, Adrian Marshall, anh muốn thảo luận trên chuyến đi trở về Los Angeles. Lý Tiểu Long đã có tấm vé sẵn sàng trở về Mỹ cho buổi trình diễn trước công chúng, và anh dự định sẽ xuất hiện trên chương trình của Johnny Carson.
Diễn biến cái chết
Raymond Chow (Châu Văn Hoài) đến nhà Lý Tiểu Long và hai người cùng bàn bạc về kế hoạch cho bộ phim Trò chơi tử thần. Linda hôn tạm biệt Lý và nói cô phải ra ngoài làm mấy việc lặt vặt (đi chợ) và sẽ gặp anh vào buổi tối.
Raymond và Lý Tiểu Long tới thăm diễn viên Betty Ting Pei (Đinh Phối) tại căn hộ của cô để bàn về vai diễn của cô trong phim Game of Death. Họ dự định sẽ có bữa ăn tối để gặp George Lazenby và mời anh tham gia vào phim. Lý Tiểu Long nói rằng anh cảm thấy bị đau đầu, hỏi mượn tạm thuốc giảm đau của Betty, sau đó anh nằm lại trên giường của cô chờ đến bữa tối. Raymond Chow ra về và nói sẽ gặp lại họ sau.
Raymond Chow và George Lazenby gặp nhau tại nhà ăn và ngồi chờ Lý Tiểu Long và Betty tới, nhưng cả hai đều không xuất hiện. Lúc 9:00 tối, Chow nhận được cú điện của Betty; cô nói đã cố đánh thức Lý nhưng anh không dậy. Betty đã gọi bác sĩ riêng của cô, ông ta cố giúp Lý hồi tỉnh và sau đó đưa anh đến bệnh viện. Nhưng Lý Tiểu Long đã không thể tỉnh lại và anh đã vĩnh viễn ra đi. Bác sĩ đã rất ngạc nhiên khi biết anh bị hôn mê lâu như vậy vào buổi tối hôm đó nhưng thật không may Betty đã không gọi ông tới giúp sớm hơn cô ấy có thể.
Lý Tiểu Long chết tại Hồng Kông vì chứng phù não (não bị sưng to). Sau nhiều cuộc thảo luận và tranh cãi, các bác sĩ đã công khai nguyên nhân tử vong của Lý Tiểu Long là "chết do tai nạn bất ngờ". Bộ phim Long tranh Hổ đấu (Enter the Dragon) đã phải trì hoãn lại 4 ngày sau vì diễn viên chính đã mất.
Ngày 25 tháng 7 năm 1973 tang lễ Lý Tiểu Long được tổ chức tại Hồng Kông và đã có hơn 25.000 người hâm mộ, bạn bè tới dự. Lý Tiểu Long được chôn cất cùng với bộ quần áo ưa thích mà anh từng mặc trong Long tranh Hổ đấu.
[sửa] Ngôi mộ của Lý Tiểu Long


Ngôi mộ của Lý Tiểu Long và con trai, Lý Quốc Hào
Ngày 30 tháng 7 năm 1973, sau một tang lễ nhỏ thứ hai ở Seattle, Washington tại Butterworth trên đại lộ East Pine, Lý Tiểu Long được chôn cất ở Nghĩa trang Lake View. Tiễn đưa anh bao gồm Steve McQueen, James Coburn, Danny Inosanto, Taky Kimura, Peter Chin, Chuck Norris và người em trai, Robert Lee.
[sửa] Gia đình
Con trai của Lý Tiểu Long là Lý Quốc Hào (Bradon Lee), trong lúc diễn một bộ phim tâm lý có cảnh quay bắn súng, một viên đạn trong khầu 44 đã trúng vào người anh (đáng lẽ ra khẩu súng này không có đạn) và khiến anh qua đời vào năm 1993 , khi anh được 30 tuổi
Các tác phẩm chính
[sửa] Đường Sơn đại huynh (The Big Boss)
Công chiếu 3-10-1971. Đường Sơn đại huynh khởi quay từ tháng 7 năm 1971 tại một vùng thị trấn nhỏ hẻo lánh tại Thái Lan. Bộ phim kể về một thanh niên nhà quê tên là Trần Triều An (do Lý Tiểu Long thủ vai) lên thành phố tìm việc làm. Nhờ sự giúp đỡ của người chú, anh nhận được một chỗ trong một xưởng làm đá cùng nhiều anh em khác, nhưng xưởng này làm ăn bất chính (sản xuất thuốc phiện). Sau khi biết anh là người giỏi võ nghệ chúng dùng tiền bạc và đàn bà để mua chuộc anh hòng biến anh thành tay sai cho chúng, nhưng sau khi phát hiện ra việc làm mờ ám của bọn chúng anh đã nhanh chống lại và triệt phá được băng đảng này.
Bộ phim ra đời đã gây được tiếng vang lớn trong ngành phim võ thuật, thu về hơn $3.5 triệu trong khi Lý Tiểu Long chỉ nhận được 15.000 USD.
[sửa] Tinh Võ Môn (Fist of Fury)
Công chiếu 22-3-1972. Bộ phim kể về Trần Chân (Chen Zhen), do Lý Tiểu Long thủ vai, là đệ tử của Hoắc Nguyên Giáp (một nhân vật nổi tiếng của Trung Hoa, người sáng lập ra Tinh Võ Môn). Được tin sư phụ mất, anh lập tức trở về dự tang sư phụ. Thấy có nhiều ẩn khúc trong cái chết bí ẩn của người thầy, Trần Chân quyết tâm điều tra một mình, sau cùng anh phát hiện ra rằng chính những người trong võ quán của Nhật, đã ra tay dưới sự giúp đỡ của một số tên phản bội trà trộn trong Tinh Võ Môn, lần lượt bọn chúng phải trả giá. Để cho yên chuyện, cảnh sát Thượng Hải yêu cầu Trần Chân phải thí mạng, và đây là bộ phim duy nhất Lý Tiểu Long bị chết, cũng như lần duy nhất anh hôn một cô gái trên phim ảnh. Nhân vật Trần Chân sau này được đưa lên phim ảnh với diễn xuất của ngôi sao Chân Tử Đan (1995) cũng rất thành công.
Bộ phim được dàn dựng hoàn toàn trong trường quay, và 27 năm sau nó trở thành một trong 10 kiệt tác của Hồng Kông. Sau này năm 1994 nó được làm lại thành bộ phim Fist of Legend do diễn viên Lý Liên Kiệt thủ vai.
[sửa] Mãnh Long quá giang (The Way of The Dragon)
Bài chi tiết: Mãnh long quá giang
Công chiếu 30-12-1972. Mở đầu là cảnh một anh thanh niên nhà quê ngơ ngác, kết thúc là màn biểu diễn võ mèo. Nhân vật chính trong phim là Đường Long, một thanh niên Hồng Kông sang Roma theo lời giới thiệu của một người chú để giúp đỡ một cô gái. Quán ăn của cô gái đang bị một nhóm xã hội đen phá đám, gây áp lực đòi cô phải bán lại nhà ăn. Do không biết chút tiếng Anh lại ngơ ngác ban đầu anh bị mọi người trong quán coi thường, mọi chuyện chỉ thay đổi sau khi Đường Long giúp đánh đuổi chúng. Cảnh đấu cuối cùng là một cảnh quay tại đấu trường La Mã đổ nát cùng với diễn viên người Mỹ rất nổi tiếng bấy giờ là Chuck Norris.
Bộ phim do Lý Tiểu Long viết kịch bản, đạo diễn kiêm diễn viên là bộ phim duy nhất trong 4 tác phẩm của Lý có những cảnh hài hước.
[sửa] Long tranh Hổ đấu (Enter the Dragon)
Công chiếu 19-8-1973. Là bộ phim đánh dấu có sự hợp tác giữa Hồng Kông và Mỹ. Trong phim là nhân vật "Lý" một để tử Thiếu Lâm tự vâng lời sư phụ đi trừng phạt kẻ phản bội sư môn (tên họ Hàn, do diễn viên Shih Kien thủ vai). Biết được chị gái của mình bị đệ tử của tay họ Hàn hại chết, với sự giúp sức của một tổ chức an ninh anh quyết định tham gia giải thi đấu võ nhằm đột nhập sào huyệt của bọn chúng là một hòn đảo. Cùng đi với anh còn có hai người bạn nữa là Roper và William, nhưng William sau đó đã bị họ Hàn giết chết trên đảo. Tại sào huyệt của chúng Lý vừa tham gia cuộc tỉ thí võ thuật còn ban đêm với sự giúp đỡ của một nữ tình báo tên là Mỹ Linh anh đột nhập vào sào huyệt của bọn chúng. Lần thứ hai thì anh bị bắt, nhưng cùng với Roper họ đã diệt được băng của họ Hàn.
Mặc dù bộ phim rất thành công song diễn viên chính của nó lại chẳng có cơ hội được xem nó, sau khi đóng phim này Lý Tiểu Long bị sút gần 15 kg, trong phim Lý Tiểu Long có bày tỏ một số quan điểm về võ thuật của mình, đúng như mong ước của anh là dùng điện ảnh để truyền bá võ thuật.
Ngày 24 tháng 8 năm 1973, Long tranh Hổ đấu đứng đầu tại rạp Graumann. Bộ phim rất thành công, và Lý Tiểu Long trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới.
[sửa] Trò Chơi Tử Vong (Game of Death)
Bài chi tiết: Tử vong du hý
Công chiếu 1978. Còn được biết đến với cái tên khác như Tử vong du hí, đây là bộ phim cuối cùng của Lý Tiểu Long. Anh vào vai Billy Lo, một diễn viên nổi tiếng bị một tổ chức do Mr. Land cầm đầu đe dọa tống tiền. Vì chống lại chúng nên Billy bị chúng âm mưu ám toán, nhưng không thành, anh chỉ bị thương nặng ở mặt. Sau đó anh làm phẫu thuật mặt và tổ chức một đám tang giả nhằm đánh lừa tổ chức của Mr. Land để dễ bề đối phó. Vì là một diễn viên, anh cải trang để theo dõi chúng tại Macao, Billy đã giết chết cận vệ của Land là Carl (một cao thủ Karate) nhưng sau đó chúng biết anh còn sống và đã bắt Anna Young - bạn gái của Billy gây áp lực, nhưng cuối cùng từng tên trong băng đảng này cũng phải đền tội.
Bộ phim có sự tham gia của một số diễn viên như Danny Inosanto và Kareem Abdul-Jabbar (trong vai Hakim), trong phim Lý Tiểu Long có biểu diễn khả năng sử dụng côn nhị khúc, ngoài ra, bộ phim còn sử dụng cảnh đám tang thật của Lý Tiểu Long.
Tháp Tử Vong (Tower of Death)
Công chiếu 21-3-1981. Còn được biết đến với cái tên khác là Tử vong du hí 2 hoặc Trò chơi tử vong 2 (Game of Death 2), đây là phần tiếp theo của bộ phim Trò Chơi Tử Vong và được sản xuất sau khi Lý Tiểu Long qua đời. Billy Lo trở lại để khám phá ra sự thật sau cái chết của bạn anh - Chin Ku (do Wong Ching Lei thủ vai). Mặc dù được biết Chin Ku chết do bệnh, tuy nhiên có nhiều nghi vấn về sự thật cái chết này và bộc lộ rõ hơn khi xảy ra vụ cướp quan tài của Chin Ku khi chuẩn bị an táng ngòai nghĩa trang. Billy Lo đã bị sát hại khi cố gắng đuổi theo bọn cướp. Khi hay tin về cái chết của anh mình, Bobby Lo (Tong Lung)- em trai của Billy - đã tạm biệt sư phụ và quyết định điều tra manh mối. Chẳng bao lâu Bobby đã đến Lâu đài Tử thần, nơi mà anh có được một tình bạn không mong muốn với võ sư Lewis (Roy Horan) độc ác và tàn nhẫn, cũng là chủ nhân của tòa lâu đài. Sau đó, Lewis cũng bị giết hại một cách tàn bạo và Bobby phải một mình đối mặt với hiểm nguy trong Tháp Tử vong. Anh đã gặp Chin Ku, người bạn cũ của Billy, cũng chính là người đã sát hại anh trai mình để giữ bí mật cho một tổ chức buôn lậu nha phiến do y cầm đầu. Trong lần đọ sức này với Bobby, Chin Ku đã thất bại và gục ngã vào chính chiếc quan tài mà y đã chuẩn bị sẵn cho các vị khách không mời mà đến Tháp Tử vong.
Phim sử dụng nguồn phim dự trữ từ các phim cũ của Lý, phần lớn là từ phim Long tranh Hổ đấu. Ngoài ra, một số cảnh trong phim có sử dụng diễn viên đóng thế Lý Tiểu Long.

                                     
  
Ngôi mộ của Lý Tiểu Long và con trai, Lý Quốc Hào
Tên:PlatoSinh:khoảng 427–428 trước Công nguyênMất:347 trước Công nguyênTrường phái:Chủ nghĩa PlatonQuan tâm chính:Siêu hình học, Nhận thức luận, Luân lý học, Mỹ học, Chính trị, Giáo dục, Triết học về Toán họcTư tưởng đáng lưu ý:Chủ nghĩa hiện thực PlatonẢnh hưởng bởi:Socrates, Archytas, Democritus, ParmenidesẢnh hưởng tới:Hầu hết các triết gia và các nhà thần học sau ông
laton (tiếng Hy Lạp: Πλάτων, Platōn, "Vai Rộng"), khoảng 427-347 TCN, là một nhà triết học cổ đại Hy Lạp được xem là thiên tài trên nhiều lĩnh vực, có nhiều người coi ông là triết gia vĩ đại nhất mọi thời đại cùng với Socrates (Σωκράτης) là thầy ông.
Sinh ra ở Athena, ông được hấp thụ một nền giáo dục tuyệt vời từ gia đình, ông tỏ ra nổi bật trên mọi lĩnh vực nghệ thuật và đặc biệt là triết học, ngành học mà ông chuyên tâm theo đuổi từ khi gặp Socrates.
Ông đã từng bị bán làm nô lệ và được giải thoát bởi một người bạn, sau đó, ông đã trở về Athena khoảng năm 387 TCN và sáng lập ra Viện hàn lâm - (tên lấy theo khu vườn nơi ông ở). Đây có thể được coi là trường đại học đầu tiên trong lịch sử nhân loại, nơi dành cho nghiên cứu, giảng dạy khoa học và triết học. Aristoteles (Αριστοτέλης) đã theo học tại đây khi 20 tuổi và sau này lập ra một trường khác là Lyceum.
Khi Socrates chết vào năm 399 TCN thì Platon mới khoảng 31 tuổi. Trong suốt phiên tòa xử thầy mình, ông ngồi dự ở phòng xử án. Toàn bộ chuỗi biến cố đó dường như đã ăn sâu vào tâm hồn ông thành một kinh nghiệm chấn động, vì ông đánh giá Socrates là người giỏi nhất, minh triết nhất và chính trực nhất trong tất cả mọi người.
Từ đó Platon bắt đầu cho phổ biến một loạt các đối thoại triết học trong đó nhân vật chính luôn luôn là Socrates, căn vặn những kẻ đối thoại của ông về những khái niệm căn bản về đạo đức và chính trị, làm cho họ mắc mâu thuẫn trước những câu hỏi của ông.
Có lẽ Platon có hai động cơ chính để làm việc này. Một là để thách thức và tái khẳng định những lời giáo huấn của Socrates bất chấp chúng đã bị kết án một cách công khai; hai là để phục hồi danh dự người thầy yêu quí của mình, cho mọi người thấy ông không phải là một kẻ hủy hoại giới trẻ mà là một bậc thầy danh giá nhất của họ.
[sửa] Triết học Platon
Platon là nhà triết học duy tâm khách quan. Điểm nổi bật trong hệ thống triết học duy tâm của Platon là học thuyết về ý niệm. Trong học thuyết này ông đưa ra hai quan niệm về thế giới các sự vật cảm biết và thế giới các ý niệm. Trong đó thế giới các sự vật cảm biết là không chân thực, không đúng đắn vì các sự vật không ngừng sinh ra và mất đi, thay đổi và vận động, không ổn định, bền vững, hoàn thiện; còn thế giới ý niệm là thế giới phi cảm tính phi vật thể, là thế giới đúng đắn, chân thực, các sự vật cảm biết chỉ là cái bóng của ý niệm. Nhận thức của con người không phải là phản ánh các sự vật cảm biết của thế giới khách quan mà là nhận thức về ý niệm. Thế giới ý niệm có trước thế giới cảm biết, sinh ra thế giới cảm biết. Từ quan niệm trên Platon đã đưa ra khái niệm "tồn tại" và "không tồn tại". "Tồn tại" theo ông là cái phi vật chất, cái nhận biết được bằng trí tuệ siêu tự nhiên là cái có tính thứ nhất. Còn "không tồn tại" là vật chất, cái có tính thứ hai so với cái tồn tại phi vật chất. Về mặt nhận thức luận Platon cũng mang tính duy tâm. Theo ông tri thức là cái có trước các sự vật chứ không phải là sự khái quát kinh nghiệm trong quá trình nhận thức các sự vật đó. Nhận thức con người không phản ánh các sự vật của thế giới khách quan mà chỉ là nhớ lại, hồi tưởng lại của linh hồn những cái đã quên trong quá khứ. Theo Platon tri thức đuợc phân làm hai loại: Tri thức hoàn toàn đúng đắn và tri thức mờ nhạt. Loại thứ nhất là tri thức ý niệm có đựơc nhờ hồi tưởng. Loại thứ hai là tri thức nhận được nhờ vào nhận thức cảm tính, lẫn lộn đúng sai không có chân lí. Về xã hội, Platon đưa ra quan niệm về nhà nước lí tưởng trong đó sự tồn tại và phát triển của nhà nước lí tưởng dựa trên sự phát triển của sản xuất vật chất, sự phân công hài hoà các ngành nghề và giải quyết các mâu thuẫn xã hội.
Những môn đệ của Platon
Nổi tiếng nhất trong số những người môn đệ của ông là Aristoteles. Ngoài ra, sau này có Plotinus (Πλωτίνος), một triết học gia người Ai Cập (với cái tên La Mã) có thể được coi là một triết gia Hy Lạp vĩ đại cuối cùng cũng là một người chịu ảnh hưởng của Platon. Tư tưởng của ông phát triển khuynh hướng thần bí của Platon và sau đó được biết tới như học thuyết Tân Platon (Neo-Platonism).
William Henry Gates III (sinh ngày 28 tháng 10, 1955), thường được biết dưới tên Bill Gates, là một doanh nhân người Mỹ, người đi tiên phong trong lĩnh vực phần mềm máy vi tính. Cùng Paul Allen, ông đã sáng lập nên tập đoàn Microsoft, một công ty phần mềm được coi là lớn nhất thế giới. Trong suốt sự nghiệp tại Microsoft, Bill Gates giữ chức chủ tịch đồng thời đóng vai trò kiến trúc sư trưởng phần mềm của hãng. Ông là người sở hữu cổ phần lớn nhất của Microsoft với khoảng 9% tài sản chứng khoán.
Gates là người đi tiên phong trong lĩnh vực phần mềm máy vi tính, một doanh nhân thành đạt trong lĩnh vực này. Mặc dù được nhiều người khâm phục, song các chiến lược kinh doanh của Gates lại gặp phải rất nhiều chỉ trích như chống độc quyền; đôi khi còn bị tố cáo ra tòa án. Từ khi gặt hái nhiều thành công trong kinh doanh, ông còn tích cực trong các hoạt động nhân đạo, ủng hộ những khoản tiền lớn cho nhiều tổ chức từ thiện và nghiên cứu khoa học thông qua Quỹ Bill & Melinda Gates, hoạt động từ năm 2000.
Cùng với nhiều người khác, ông viết nên chương trình Altair BASIC cho máy Altair 8800 (một máy tính thuộc thế hệ trước). Danh sách những tỉ phú thế giới của tạp chí Forbes đã xếp Bill Gates vào vị trí người giàu nhất thế giới từ năm 1995 đến năm 2007, với tài sản năm 2007 vào khoảng $59 tỉ USD. Vào tháng 7 năm 2007, tạp chí Fortune cho hay tỉ phú người Mexico Carlos Slim đã vượt qua Bill Gates để trở thành người giàu nhất thế giới. Nhưng Forbes vẫn giữ Slim ở vị trí thứ 2 sau Gates trong danh sách mới nhất.
Tiểu sử
Bill sinh tại Seattle, Washington, trong một gia đình giàu có. Bố ông, William H. Gates là một luật sư nổi tiếng, mẹ ông Mary Maxwell Gates là một thành viên trong ban giám đốc của ngân hàng Interstate và United Way, và ông ngoại - J. W. Maxwell là chủ tịch một ngân hàng quốc gia. Bill có một chị gái, Kristianne, và một em gái, Libby. Ông là người thứ tư mang tên "William Henry Gates" trong gia đình, những vẫn được bố đặt thêm III vào sau tên.
Bill Gates đã thu nhập được những kinh nghiệm về vi tính, ngay từ lúc ông mới 14 tuổi đang còn học ở trường trung học. Ông đã học cách lập trình cùng bạn học Paul Allen và thành lập công ty đầu tiên trong cuộc đời Traf-O-Data. Năm 1973 Gates học ở trường Đai học Harvard. Trong khi ở trường, ông đã sử dụng rất nhiều thời gian cho máy tính. Tháng 11 năm 1974, ông đã cùng Allen phát triển trình thông dịch cho ngôn ngữ BASIC. Năm 1975 ông đã nghỉ học ở trường Đai học Harvard và ông dành thời gian cho việc thành lập Microsoft. Năm 1994 ông lập gia đình với Melinda French và có hai người con gái (Jennifer Katharine Gates và Phoebe Adle Gates) và một cậu con trai (John Gates). Hiện nay, ông sống cùng với gia đình gần hồ Washington ở Medina, Washington. Người kiến trúc sư của ngôi nhà là Jame Cutler. Trị giá ngôi nhà khoảng 50 triệu đô la.
Năm 2006, có tin đồn là Gates tuyên bố sẽ dần dần từng bước nhường chức "kiến trúc sư trưởng" của Microsoft để dồn tâm sức cho Quỹ Bill & Melinda Gates (Bill & Melinda Gates Foundation)[1].
Cũng trong năm 2006, Bill Gates đã có chuyến viếng thăm Việt Nam với dự định mở rộng công nghệ thông tin ở đây. Năm 2007, Bill Gates đã nhường quyền chủ tịch tập đoàn cho Steve Ballmer.
Ngày 27 tháng 6 năm 2008, Bill Gates có buổi làm việc chính thức cuối cùng tại trụ sở Microsoft.
Vladimir Ilyich Lenin
Bách khoa toàn thư mở Wikipedia
Bước tới: menu, tìm kiếm
Mục từ "Lenin" dẫn đến bài này. Xin đọc về các nghĩa khác tại Lenin (định hướng).
Vladimir Ilyich Lenin
Владимир Ильич Ленин
Chân dung Vladimir Ilyich LeninNhiệm kỳ8 tháng 11 năm 1917 – 21 tháng 1 năm 1924Tiền nhiệmAleksandr Kerensky
(thủ tướng của chính phủ lâm thời tư sản)Kế nhiệmAleksei Rykov
(Stalin là Tổng bí thư)ĐảngĐảng Cộng sản Liên XôSinh22 tháng 4 năm 1870)
Simbirsk, Đế quốc NgaMất21 tháng 1 năm 1924 (53 tuổi)
Gorki, CHXHCNLBXV Nga, Liên XôTôn giáoVô thầnChữ ký Vợ hay chồngNadezhda Krupskaya
Vladimir Ilyich Lenin (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Ле́нин, phiên âm tiếng Viêt: Vla-đi-mia Y-lích Lê-nin), tên khai sinh là Vladimir Ilyich Ulyanov (tiếng Nga: Влади́мир Ильи́ч Улья́нов), còn thường được gọi với tên V. I. Lenin hay N. Lenin (sinh ngày 22 tháng 4 năm 1870 - mất ngày 21 tháng 1 năm 1924) là một lãnh tụ của phong trào cách mạng vô sản Nga, là người phát triển học thuyết của Karl Marx (1818 - 1883) và Friedrich Engels.
Ông sinh tại làng Gorki, Simbirsk, nay là Ulyanovsk. Tên họ thật là Vladimir Ilyich Ulyanov. Lenin là người tổ chức Đảng Cộng sản Liên Xô và thành lập nhà nước Xô Viết.
Ông mất tháng 1 năm 1924, thi hài được lưu giữ trong lăng Lenin trên Quảng trường Đỏ, Moskva. Ông được tạp chí Time bình chọn là một trong 100 nhân vật ảnh hưởng nhất trong thế kỷ 20.
Tuổi trẻ


Vladimir Ilit Ulyanov (Lenin) khoảng năm 1887
Lenin sinh tại Simbirsk, Nga (hiện là Ulyanovsk), là con trai của vợ chồng Ilya Nikolaevich Ulyanov (1831–1886), một quan chức dân sự Nga làm việc để mở rộng dân chủ và giáo dục đại chúng miễn phí ở Nga, và Maria Alexandrovna Ulyanova (1835–1916), một người theo chủ nghĩa tự do. Lenin là người có dòng máu lai từ thời tổ tiên. Là người Nga nhưng ông có dòng máu của người Kalmyk qua ông nội, của người Đức Volga qua bà ngoại (là một người theo thuyết Luther), và của người Do Thái qua ông ngoại (người đã cải theo đạo Thiên chúa giáo). Lenin được rửa tội trong Nhà thờ chính thống Nga.
Lenin nổi tiếng học giỏi tiếng Latin và tiếng Hy Lạp. Hai bi kịch đã xảy ra trong thời niên thiếu của ông. Lần đầu khi cha ông mất vì xuất huyết não năm 1886. Tháng 5 năm 1887 anh cả của ông Aleksandr Ilyich Ulyanov bị treo cổ vì tham gia vào một âm mưu ám sát Sa hoàng Aleksandr III. Việc này đã làm Lenin trở thành người cấp tiến. Tiểu sử chính thức của ông thời Xô Viết coi sự kiện này có ảnh hưởng lớn tới các quá trình cách mạng của ông. Một bức tranh nổi tiếng của Belousov, Chúng ta sẽ đi theo một con đường khác, được in lại hàng triệu lần trong những cuốn sách thời Xô Viết, mô tả cậu bé Lenin và mẹ đang buồn bã khi mất người anh trai. Câu nói "Chúng ta sẽ theo một con đường khác" có nghĩa là Lenin đã lựa chọn chủ nghĩa Marx để tiếp cận tới cách mạng nhân dân, thay vì những phương pháp vô chính phủ cá nhân. Khi Lenin bắt đầu quan tâm tới chủ nghĩa Marx, ông tham gia vào các cuộc phản kháng của sinh viên và cuối năm đó bị bắt. Sau đó ông bị đuổi khỏi Đại học Kazan. Ông tiếp tục học tập một mình và tới năm 1891 đã có giấy phép hành nghề luật.
Tháng 7 năm 1898, ông cưới Nadezhda Krupskaya, một người hoạt động xã hội [1].
Cách mạng


Lenin, tháng 12 năm 1895 (ảnh lúc bị bắt)
Ngay khi tốt nghiệp, Lenin vào làm trợ lý cho một luật sư. Ông làm việc nhiều năm tại Samara, Nga, sau đó vào năm 1893 chuyển tới Sankt-Peterburg. Thay vì tìm kiếm một công việc hợp pháp ổn định, ông ngày càng tham gia sâu vào các hoạt động tuyên truyền cách mạng và nghiên cứu chủ nghĩa Marx. Ngày 7 tháng 12 năm 1895, ông bị nhà chức trách bắt giam 14 tháng sau đó trục xuất tới một làng tại Shushenskoye ở Siberia.
Tháng 4 năm 1899, ông xuất bản cuốn sách Sự phát triển của Chủ nghĩa Tư bản tại Nga[2]. Năm 1900, thời kỳ đi đày chấm dứt. Ông đi du lịch nước Nga và những nơi khác ở châu Âu. Lenin đã sống tại Zürich, Genève, Munchen, Praha, Viên và Luân Đôn và trong khi bị đi đày ông đã sáng lập tờ báo Iskra. Ông cũng viết một số bài báo và cuốn sách về phong trào cách mạng. Trong giai đoạn này, ông đã bắt đầu sử dụng nhiều bí danh, cuối cùng lấy tên Lenin.
Ông hoạt động trong Đảng Lao động Dân chủ Xã hội Nga (RSDLP; РСДРП trong tiếng Nga), và vào năm 1903 ông lãnh đạo phái Bolshevik sau một sự chia rẽ với những người Menshevik, điều này xảy ra một phần từ cuốn sách nhỏ của ông Điều cần làm? [3]. Năm 1906 ông được bầu làm Chủ tịch RSDLP. Năm 1907 ông tới Phần Lan vì những lý do an ninh. Ông tiếp tục đi du lịch châu Âu và tham gia vào nhiều cuộc gặp gỡ cũng như các hoạt động xã hội, gồm cả Hội thảo Đảng Praha năm 1912 và Hội thảo Zimmerwald năm 1915. Khi Inessa Armand rời Nga sang sống tại Paris, bà đã gặp Lenin và những người Bolshevik khác đang bị trục xuất, và được cho là đã trở thành một người cộng tác của Lenin trong thời gian đó. Sau đó Lenin đi sang Thụy Sĩ.
Richard Pipes cho rằng Lenin đã phân tích Công xã Paris và kết luận rằng công xã đó thất bại vì "sự khoan hồng quá mức - đúng ra Công xã phải tiêu diệt những kẻ thù của mình"[4]. Tuy nhiên, cả câu trích dẫn, như Lenin đã nói trong một bài phát biểu đã được chuyển tới một cuộc gặp gỡ quốc tế tại Genève ngày 18 tháng 3 năm 1908, nhân ngày lễ kỷ niệm Công xã như sau: "Dù giai cấp vô sản xã hội đã bị chia rẽ thành nhiều phe, Công xã là một ví dụ cụ thể về sự đoàn kết để khi có nó giai cấp vô sản có thể hoàn thành các nhiệm vụ dân chủ mà giai cấp tư sản chỉ có thể tuyên bố ra. Không cần có một điều luật phức tạp đặc thù nào cả, một cách đơn giản, rõ ràng, giai cấp vô sản, khi đã nắm quyền lực, sẽ tiến hành dân chủ hóa hệ thống xã hội, xóa bỏ quan liêu và khiến cho mọi chức vụ nhà nước đều thông qua bầu cử. Hai sai lầm đã tiêu diệt thành quả của một chiến thắng vẻ vang. Giai cấp vô sản đã dừng lại nửa chừng; thay vì tiếp tục `chiếm đoạt của những kẻ chiếm đoạt,` họ đã cho phép mình đi chệch hướng bởi những mơ ước về một sự công bằng tuyệt đối trong một đất nước thống nhất bởi một mục tiêu quốc gia; những định chế, như ngân hàng, đã không bị nắm giữ. .... Sai lầm thứ hai là sự khoan dung quá đáng của giai cấp vô sản: đúng ra họ phải tiêu diệt các kẻ thủ, nhưng thay vào đó họ lại gắng sức dùng đạo đức để gây ảnh hưởng tới chúng; họ đã bỏ qua tầm quan trọng của hoạt động quân sự thuần túy trong một cuộc nội chiến và thay vì tiếp tục tiến bước mạnh mẽ tới Versailles và giành lấy chi�
* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Võ Thị Hoa Phượng
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)