10 loại động vật bên bờ tuyệt chủng

Chia sẻ bởi Nguyễn Đức Bình | Ngày 11/05/2019 | 61

Chia sẻ tài liệu: 10 loại động vật bên bờ tuyệt chủng thuộc Công nghệ 10

Nội dung tài liệu:

Nhóm 1
10 LOÀI ĐỘNG
VẬT BÊN BỜ VỰC TUYỆT CHỦNG
Hiện nay, trên thế giới, mỗi năm có khoảng 50.000-100.000 loài động vật biến mất, tương đương với tốc độ thảm họa đã từng xảy ra cách đây 65 triệu năm, làm tuyệt diệt loài khủng long. Con số này lớn gấp đôi so với dự đoán được đưa ra năm 1997 trong Hội nghị Quốc tế về các loài động vật tuyệt chủng. Theo các nhà khoa học, nguyên nhân chính dẫn tới sự biến mất hàng loạt của các loài động vật là do các hoạt động của con người, như chặt phá rừng, săn bắn, lấn chiếm đất đai làm thu hẹp không gian sống của chúng. Tất cả những tác động đó gộp lại đã đẩy nhiều loài động vật hoang dã đến bờ vực của sự tuyệt chủng. Dưới đây chỉ là 10 “đại diện tiêu biểu" trong số đó.

Tê giác Java còn được gọi là tê giác một sừng (Rhinoceros sondaicus) là một trong năm loài động vật guốc lẻ còn sống sót của họ tê giác.
Tê giác Java
Chiều dài cơ thể của tê giác Java (bao gồm cả đầu) có thể lên đến 3,1–3,2 m (10–10,5 ft) và chiều cao là 1,4–1,7 m (4,6–5,8 ft). Khi trưởng thành, chúng có cân nặng khác nhau, dao động từ 900 đến 2.300 kg, và do đang ở tình trạng cực kỳ nguy cấp nên vẫn chưa có một nghiên cứu chính xác nào về kích cỡ khối lượng của loài nay, bởi việc đó không phải là ưu tiên hàng đầu]. Không có sự khác biệt kích cỡ đáng kể nào giữa hai giới, nhưng con cái có thể to hơn con đực một ít. Những con tê giác Việt Nam thì nhỏ hơn đáng kể so với đồng loại ở Java, dựa trên những bằng chứng hình ảnh hay kích cỡ dấu chân của chúng
Tê giác Java
Chúng cũng là loài phổ biến nhất trong các loài tê giác châu Á. Tê giác Java từng phân bố ở các đảo của Indonesia, trải rộng toàn bộ Đông Nam Á, tới cả Ấn Độ và Trung Quốc.
Hiện nay chúng đang ở trong tình trạng cực kỳ nguy cấp, với chỉ hai quần thể được ghi nhận trong môi trường tự nhiên và không có con nào trong các vườn thú. Một quần thể có ít nhất 40 con sống tại Vườn quốc gia Ujung Kulon trên đảo Java của Indonesia. Quần thể còn lại, theo ước lượng năm 2007, chỉ còn khoảng 8 con, sống tại Vườn quốc gia Cát Tiên của Việt Nam. Chúng có thể là loài thú lớn hiếm nhất trên thế giới. Sinh cảnh sống thu hẹp và bị săn bắn ráo riết để lấy sừng là những nguyên nhân hàng đầu dẫn tới sự diệt vong của loài tê giác này.


Cá heo Vaquita
sống ở Vịnh California. Chúng đang bị đe dọa bởi phạm vi sinh sống hạn hẹp và khả năng dễ bị mắc vào lưới đánh cá. Số lượng còn lại ngày nay chỉ khoảng 200-300 cá thể.
Thức ăn của vaquita là các con cá nhỏ và mực trong vịnh. Vaquita thường tập trung thành các nhóm nhỏ, từ 2-3 con bơi cùng nhau hoặc đôi khi có thể lên tới 8-10 con luôn quấn quít bên nhau.
Cá heo Vaquita
Cá heo Vaquita (Phocoena sinus) - loài cá heo nhỏ nhất và có nguy cơ tuyệt chủng cao nhất -
Khỉ đột Cross River
Khỉ đột Cross River - Gorilla gorilla diehli sống ở Nigeria và Cameroon.
Khỉ đột Cross River
Khỉ đột (Gorilla) thuộc Họ người ,động vật ăn cỏ sống trong rừng rậm Châu Phi là giống lớn nhất trong bộ linh trưởng còn tồn tại. Gorilla được chia thành hai loài (có thể có 4 đến 5 phân loài nữa). DNA của gorilla giống của con người 98% -99%. Chúng có họ hàng rất gần gũi với con người chỉ sau 2 loài tinh tinh.
Khỉ đột Cross River
Số lượng còn lại ít hơn 300 cá thể. Loài này tưởng chừng đã bị tuyệt chủng những năm 1980, nhưng chúng đã trụ lại được, ít nhất là đến thời điểm này. Song với tình trạng săn bắn làm mồi nhậu ở quán ven rừng và mất môi trường sinh sống hiện nay, khả năng sống sót của chúng vẫn còn rất bấp bênh.


Hổ Sumatra
Hổ Sumatra - Panthera tigris sumatrae. Sống ở Sumatra, Indonesia.
Hổ Sumatra
Số lượng còn lại ít hơn 600 cá thể. Loài hổ nhỏ bé này chỉ sống ở Sumatra một triệu năm nay, khiến nó gặp khó khăn khi tìm cách trốn thoát sự xâm lấn của con người. Đa số còn sống sót sinh sống trong khu vực bảo tồn. Nhưng vẫn có khoảng 100 cá thể sống ở biên giới của khu vực được bảo vệ.


Voọc Cát Bà
Voọc Cát Bà hay còn gọi là voọc đầu vàng (Trachypithecus poliocephalus), chỉ có ở quần đảo Cát Bà của Việt Nam
Voọc Cát Bà
Voọc Cát Bà (còn gọi là voọc đầu vàng, voọc thân đen đầu vàng Cát Bà) Phân loại khoa học
Giới (regnum):Animalia
Ngành (phylum):Chordata
Lớp (class):Mammalia
Bộ (ordo):Primates
Họ (familia):Cercopithecidae
Chi (genus):Trachypithecus
Nhóm loài (species group):T. francoisi
Loài (species):T. p. poliocephalus

Voọc Cát Bà
Số lượng còn lại ít hơn 70 cá thể. Loài linh trưởng này từng suýt bị xóa sổ nhưng đã được may mắn đặt dưới sự bảo vệ từ năm 2000. Năm 2003, số lượng cá thể voọc Cát Bà lần đầu tiên gia tăng trong suốt vài thập niên gần đây. Tuy nhiên, công tác bảo tồn loài voọc quý hiếm này vô cùng khó khăn vì khi những dải rừng ngập mặn mất đi, các quần thể voọc bị cô lập trên các đảo, hầu như không có khả năng gặp gỡ và giao phối. Một số đàn đang suy giảm vì chỉ còn lại toàn con cái. Trong danh sách các loài linh trưởng bị đe dọa của thế giới, voọc đầu vàng luôn ở vị trí số 1.

Chồn sương chân đen
Chồn sương chân đen - Mustela nigripes
Chồn sương chân đen
sống ở khu vực đồng bằng lớn Bắc Mỹ. Năm 1986, chúng chỉ còn 18 cá thể tồn tại, nhưng nay đang phục hồi, số lượng lên khoảng một ngàn cá thể. Đây là loài chồn sương duy nhất của lục địa này.

Loài voi lùn Borneo
Loài voi lùn Borneo (Elephas maximus borneensis)
Loài voi lùn Borneo

Theo các chuyên gia hiện nay chỉ còn khoảng 1.000 voi lùn sống trong tự nhiên. Mãi đến năm 2003, khi phân tích DNA, các nhà khoa học mới phát hiện ra rằng loài voi lùn sống trên đảo Borneo là một chi phụ của loài voi châu Á và bắt đầu bảo tồn chúng như một loài riêng. Voi lùn trưởng thành chỉ cao 2,4 mét (lùn hơn loài voi châu Á khoảng từ 30-60 cm), mập hơn, mặt trông có vẻ con nít hơn và đuôi dài hơn - gần chạm đất.
Các nhà khoa học cho biết địa bàn cư trú chủ yếu của loài voi lùn là ở những trảng rộng, thấp hoặc thung lũng những con sông, những nơi mà người dân tại Malaysia và Indonesia đang tích cực khai thác gỗ hay lập trang trại trồng cọ.
sống ở phía Bắc đảo Borneo. Số lượng còn lại khoảng 1,5 ngàn cá thể. So với voi châu Á, chúng thấp hơn khoảng nửa mét và cũng thuần tính hơn.

Gấu trúc
Gấu trúc - Ailuropoda Melanoleuca -

Gấu trúc
Số lượng còn chưa đầy 2.000 con. Gấu trúc có khẩu phần ăn đến 99% là lá tre. Ngoài ra, gấu trúc có thể ăn những loại thức ăn khác như trứng, mật ong, cá, mứt, cam và chuối. Gấu trúc là tài sản quốc gia và biểu tượng quốc gia của Trung Quốc. Hình ảnh gấu trúc xuất hiện trên các đồng tiền xu và rất nhiều đồ lưu niệm của nước này. Ở Trung Quốc, loài gấu trúc này chủ yếu sống trong thiên nhiên, nhất là tại các vùng núi.
Gấu trúc
sống ở Trung Quốc, Miến Điện và Việt Nam. Số lượng còn lại ít hơn 2 ngàn cá thể. Sự thu hẹp và phân mảnh của khu vực sinh sống là nguyên nhân khiến gấu trúc rơi vào tình trạng nguy hiểm. Việc cho loài này sinh sản trong môi trường nuôi nhốt và bảo vệ chúng ngoài thiên nhiên chỉ giúp gấu trúc trụ lại phần nào.

Gấu Bắc Cực
Gấu Bắc Cực - Ursus maritimus - sống ở Bắc Cực.
Giới (regnum): Animalia
Ngành(phylum): Chordata
Lớp (class): Mammalia
Bộ (ordo): Carnivora
Họ (familia): Ursidae
Chi (genus): Ursus
Loài (species): U. maritimus

Gấu Bắc Cực
Chúng có mặt ở ngoài khơi bờ biển phía bắc và tây bắc Alaska, Canada, Greenland, Svalbard (Na Uy) và Liên bang Nga.Quần thể gấu Bắc Cực ước tính khoảng 16.000 đến 35.000, với khoảng 60% ở Canada.
gấu Bắc Cực còn có lớp mỡ dày đến 10 cm giúp giữ ấm cơ thể, ngay cả khi nhiệt độ xuống tới -40 °C. Chúng không có lông mi, vì lông mi có thể gây đóng băng trên mắt khi nhiệt độ dưới 0 °C. Thay vào đó chúng có lớp màng mí mắt thứ ba, giống như của mèo, giúp cho chúng không bị chói băng và chói tuyết
Gấu Bắc Cực
Số lượng còn lại ít hơn 25 ngàn cá thể. Các hoạt động phát triển và săn bắn trộm của loài người từ lâu đã đe dọa cuộc sống của loài gấu Bắc Cực, nhưng thay đổi khí hậu và sự mất dần các tảng băng trên biển hiện nay đã đẩy loài này vào danh sách nguy hiểm.


Gấu Bắc Cực
Thức ăn chính của gấu Bắc Cực là hải cẩu; không có loài động vật này, gấu Bắc Cực khó có thể tồn tại. Về mùa xuân, chúng săn hải cẩu vòng mới đẻ; về mùa hè, chúng săn hải cẩu râu, hải cẩu đầu chỏm. Gấu Bắc Cực là loài rất kén ăn. Khi ăn, chúng lột da hải cẩu và thường chỉ ăn lớp mỡ dưới da và bộ lòng. Chỉ khi nào quá đói chúng mới ăn toàn bộ xác con mồi. Các loại mồi khác bao gồm cá heo trắng, voi biển và động vật gặm nhấm
Cá nheo khổng lồ sông Mê Kông
Cá nheo khổng lồ sông Mê Kông (Pangasianodon gigas)
Cá nheo khổng lồ sông Mê Kông
sống ở Đông Nam Á. Cá thể lớn nhất từng bị bắt nặng tới 293kg. Mặc dù đã được luật pháp bảo vệ ở Thái Lan, Lào và Campuchia, nhưng việc săn bắt loài cá này vẫn tiếp diễn. Số lượng cá trong tự nhiên chỉ còn khoảng vài trăm con.

Nguyên nhân
Rừng bi khai thác can kiệt
Phạm vi sống hẹp
Môi trường bị ô nhiểm
Môi trường sống bị thu hẹp
Tình trạng săn bắt trái phép
Thiên tai
Kiến nghi

Cần phải bảo vệ triệt để điều kiện và môi trường sống của những cá thể còn sống sót
Nâng cao ý thức bảo vệ của cộng đồng đối với quá trình bảo tồn
Quy định chặt chẻ hơn trong quản lý xuất nhập khẩu các sản phẩm từ động thực vật

Tài liệu tham khảo
Bài giảng động vật rừng-TS Vũ Thị Nga
http://vi.wikipedia.org/wiki/Gorilla
http://vi.wikipedia.org/wiki/tegiac_Java
http://vi.wikipedia.org/wiki/Hosumatra
http://vi.wikipedia.org/wiki/voc cat ba
http://vn.myblog.yahoo.com/akai-shuyichi/10 loai dong vat ben bo tuyet chung
http://vietbao.vn/Khoa-hoc/Voi-lun-dang-bi-de-doa/40214927/188/
http://vi.wikipedia.org/ca tra
http://www.mekongriver.org/catrasongmecong
http://thuvienkhoahoc.com/tusach/10 loai dong vat moi phat hien
http://www.huaf.edu.vn/diendan/viewtopic.php?f=114&t=241

* Một số tài liệu cũ có thể bị lỗi font khi hiển thị do dùng bộ mã không phải Unikey ...

Người chia sẻ: Nguyễn Đức Bình
Dung lượng: | Lượt tài: 1
Loại file:
Nguồn : Chưa rõ
(Tài liệu chưa được thẩm định)